Wednesday, May 21, 2025

Chu

 

Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường

Của Bộ Thương Mại Mỹ Và  Chính Quyền Việt Nam

 

Nguyễn Văn Chữ

Tóm lược:

Mục tiêu của bài viết này là: (i) lý giải Bàn tay Vô hình của Adam Smith; (ii) tóm lược những biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội, và công nghệ đã trói Bàn tay Vô hình, vô hiệu hóa sự hữu hiệu của chủ thuyết kinh tế “thị trường” cổ điển theo giả thuyết Bàn tay Vô hình và “cung tạo ra cầu” của  Đinh luật Say; (iii) tóm lược những biến chuyển đưa đến chủ thuyết kinh tế thị trường mới, thuyết giảng và chứng minh rằng trong điều kiện  kinh tế, chính trị, xã hội, và công nghệ mới, chính phủ phải dùng công cụ của chính sách tài chính công và tiền tệ để điều tiết hoạt động kinh tế quốc gia; (iv) do nhu cầu can thiệp của chính quyền, các quốc gia phát triển ngày nay đều có nền kinh tế pha trộn (mixed economy); (v) Việt Nam với  thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa vào bản chất pha trộn của các nền kinh tế phát triển để đưa ra những biện minh yêu cầu Mỹ công nhận có nền kinh tế thị trường; (vi) dựa trên dữ liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF) và chính sách phát triển của thể chế Việt Nam đưa ra giả thuyết tại sao Hà Nội gấp rút yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường (vii) liệt kê 6 tiêu chí mà Bộ Thương Mại (BTM) Mỹ căn cứ để xem xét các quốc gia đối tác có “nền kinh tế thị trường” hay không; (viii) tóm lược luận cứ Hà Nội và thư gửi BTM Mỹ của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (the US-ASEAN Business Council) về nền kinh tế Việt Nam, và đưa những điều bất cập trên bình diện lý thuyết và thực tiễn đã và đang xẩy ra tại Việt Nam như là những phản biện; và sau cùng (ix) đưa ra một vài suy tư để thay lời kết.

·       Dẫn nhập

Sau năm 1975, thể chế độc đảng, chế độ công sản, luận cứ đảng cử, dân bầu, và qui trình phối trí lao động theo nguyên tắc hồng hơn chuyên trong nền kinh tế trung ương hoạch định của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đưa toàn thể đất nước này vào một thời gian cực kỳ khó khăn, khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng này đe dọa sự tồn tại của đảng Cộng Sản và thể chế vào các năm đầu của thập niên 1980. 

Trong tình huống đó, Việt Nam đã đưa ra kế hoạch đổi mới, trong đó trên lý thuyết hoạt động kinh tế theo mô hình trung ương hoạch định được chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, vào năm 1986. Mô hình mới đặt khu vực quốc doanh và ngoại thương là cốt lõi hay vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế quốc gia.

Do được điều kiện hóa trong một văn hóa, môi trường kinh tế, và kinh doanh của phần định hướng của xã hội chủ nghĩa - bao gồm cả chính sách công hữu và đặt lãnh vực quốc doanh vào vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế của chính sách kinh tế thị trường,  định hướng xã hội chủ nghĩa mà chính phủ VN theo đuổi trong nhiều thập niên, nên trong quá trình hội nhập vào cộng đồng thế giới hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà cũng không cần kiến tạo một xã hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch. 

Trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, hai học giả về phát triển kinh tế thế giới, đầy uy tín và am tường về VN, Klingler-Vidra và Wade (2020), chỉ rằng chính sách công nghệ hóa tuyên bố một đàng mà thực thi một nẻo tại quốc gia này sẽ không có triển vọng cho sự tăng trưởng bền vững. Đồng thời, nông sản có tỷ trọng quan trọng trong tài khoản xuất khẩu của VN, nhất là gạo và thuỷ sản nuôi; nhưng vấn đề nhiễm mặn, và do kinh đào Phù Nam Techo, sự hâm nóng môi trường, sự nhiễm mặn sẽ nghiêm trọng hơn, đang và sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng trong quá trình canh tác và nuôi thủy sản của VN.

Mặc dù, Tổng cục Thống kê thu thập dữ liệu thống kê và toàn bộ hệ thống truyền thông của nhà nước theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo của Đảng báo cáo phát triển vang dội; nhưng dữ liệu thống kê do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund - IMF) thu thập và lưu trữ cho thấy trong năm 2022, giá trị xuất siêu của Việt Nam đến Mỹ, Trung Cộng, Liên Âu, và toàn thế giới, theo thứ tự, là 94.672,73; -59.235,65; 27.476,65; và 13.392,93 triệu Mỹ kim (IMF, 2023).  Hai điểm quan trọng sau đây về ngoại thương của Việt Nam cần nêu ra để lượng giá tình trạng kinh tế vĩ mô và sự phát triển của quốc gia này: 

Thứ nhất, tổng sản lượng quốc nội (Gross Domestic Product - GDP) của VN trong năm 2022 là 406,00 tỷ Mỹ kim và tổng số xuất cảng và nhập cảng của Việt Nam chiết tính bằng phần trăm của GDP, là chỉ số đo độ mở của nền kinh tế, trong cùng năm là 166,60 % (IMF, 2024). Chỉ số này cho thấy nền kinh tế VN quấn quyện sâu đậm nên lệ thuộc sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc có một biên giới chung khá dài và nhiều cửa khẩu cùng với tình trạng tham nhũng khủng khiếp tại Việt Nam nên nếu bao gồm trị giá của hàng nhập lậu từ Trung Quốc thì sự khiếm hụt của ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ rất nghiêm trọng hơn là -59.235,65 triệu Mỹ kim như báo cáo; đồng thời, báo cáo kiều hối gửi vào Việt Nam trong năm là trên dưới 16 tỷ Mỹ kim.

Truyền thông Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo của Đảng Cộng Sản (ĐCS) rao giảng rằng nhờ tài năng lãnh đạo của Đảng nên, dù với sự đình trệ của kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt.  Tuy nhiên, các dữ liệu thống kê và hai điểm tiềm ẩn trong các dữ liệu vừa nêu, cho thấy hoạt động kinh tế vĩ mô của Việt Nam không như rao giảng mà đang lảng vảng trước bẫy thu nhập trung bình.

Hơn nữa, vấn nạn nghiêm trọng này là do thể chế cũng như chính sách mà đảng và nhà nước Việt Nam đã theo đuổi nhiều năm qua và hiện nay họ không có khả năng tự giải thoát. Do đó, đảng và nhà nước ban hành Nghị Quyết 1334 để thu hút nguồn tài chính và chất xám của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tập trung toàn bộ các phương cách để yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, như bao nhiêu lần trước, yêu cầu này đã bị BTM Mỹ khước từ vào ngày 2 tháng 8, năm 2024, dựa trên phân tích chuyên sâu theo các tiêu chí luật pháp quy định trong mục 771 (18) của Đạo luật Thuế quan năm 1930.

Từ góc nhìn lịch sử của ngôn ngữ thì cụm từ kinh tế thị trường như một số cụm từ trừu tượng khác, như yêu chẳng hạn, có cùng bản chất là hầu hết chúng ta dùng hàng ngày và cho rằng mình hoàn toàn hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, nếu ai đó hỏi kinh tế thị trường là gì thì hầu hết chúng ta sẽ phải ngập ngừng để suy tư và đồng hóa cụm từ nầy với Adam Smith của thế kỷ thứ 18.  Hơn nữa, ngược dòng thời gian cho thấy rằng bản chất của các nền kinh tế của các quốc gia phát triển ngày này không còn bản chất của kinh tế thị trường của ba thế kỷ trước.

Đồng thời, xuyên không gian cho thấy vì khác mục tiêu của chính sách kinh tế đưa đến dị biệt bản chất của các nền kinh tế tại các quốc gia tiến bộ ngày nay. Lẽ đương nhiên, khi yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, Hà Nội đã phải đưa ra lập luận để biện minh rằng nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước đã thỏa mãn các tiêu chí mà BTM Mỹ dựa vào để xem xét một quốc gia có kinh tế thị trường hay không.

Do những lý do trên, bài viết này cố gắng lý giải/trình bày các vấn đề sau đây:

·          Ý nghĩa của cụm từ kinh tế thị trường và cách vận hành của nền kinh tế thị trường gần ba thế kỷ trước;

·          Các biến đổi đưa đến bản chất của nền kinh tế thị trường ngày nay;

·            Các khác biệt bản chất của các nền kinh tế của các quốc gia phát triển;

·            Do sự biến đổi qua thời gian và khác biệt xuyên không gian trên, bài viết này sẽ báo cáo 6 tiêu chí mà BTM Mỹ dựa vào để xem xét một quốc gia có kinh tế thị trường  hay không (ý nghĩa của cụm từ Kinh tế Thị trường ngày nay);

·          Sự thích nghi của lập luận Hà Nội và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN  đưa ra để biện hộ cho nền kinh tế thị trường cho Việt Nam; và,

·          Một vài suy tư thay lời kết.

 

·       Ý nghĩa của cụm từ “kinh tế thị trường”

 

Tổng quan thì lý thuyết về kinh tế thị trường bắt nguồn từ giả thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith với một giả định ngầm về việc điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh (an implicit assumption on the complete market price adjustments, both upward and downward) và Định luật Say sau đây:

·        Giả thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith

Về mặc kinh tế vi mô (Microeconomics), Adam Smith (The Wealth of Nations,1776) giả thuyết rằng nền kinh tế hiệu quả nhất là một hệ thống trong đó các cá nhân và doanh nghiệp có thể tự do theo đuổi lợi ích cá nhân hoặc kinh doanh của họ mà không cần bất kỳ hướng dẫn hoặc quy định nào của chính phủ (laissez-faire). Tương tác giữa người tiêu dùng hay đơn vị kinh tế tiêu thụ và doanh nghiệp hay các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ quyết  định những gì sẽ được sản xuất để cung cấp ra thị trường và ở mức giá nào; hay trả lời ba câu hỏi cơ bản của lý thuyết kinh tế vi mô hiện đại:

·            Sản xuẩt những gì?

·            Sản xuất bằng cách nào? Và,

·            Sản xuất cho ai?

Đây là giả thuyết cơ bản của Adam Smith về nền kinh tế thị trường và được mệnh danh là “Bàn tay Vô hình” trong lãnh vực kinh tế vi mô trong thế kỷ thứ 18.

·         Định luật Say

Về mặt kinh tế vĩ mô (Macroeconomics), định luật Say (Jean-Baptiste Say; một lý thuyết gia về kinh tế chính trị, 1803) giả thuyết rằng: cung tạo ra cầu của chính nó.  Cung tạo ra cầu của chính nó được hiểu là khi một nền kinh tế với một số lượng nào đó của các yếu tố sản xuất là tư bản, bao gồm mức độ kỹ thuật tích chứa, và lực lượng lao động, bao gồm kỹ năng, sẽ sản xuất một số lượng sản phẩm và dịch vụ trị giá bằng một số đo nào đó mà trong thuật ngữ thời thượng ngày nay là GDP. Và,  giá trị của các sản phẩm và dịch vụ này hay GDP cũng là mãi lực của nền kinh tế để mua các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất.

·        Giả thuyết tiềm ẩn về  điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith

Một giả định dù tiềm ẩn nhưng vô cùng quan trọng trong giả thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith là giả thuyết về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh, mang ý nghĩa là giá cả thị trường của bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào sẽ tăng, không bị bất cứ cản trở nào,  khi có sự thiếu hụt; hay số lượng cầu lớn hơn số lượng cung, trong thị trường đó (bao gồm cả thị trường nhân dụng, vì tiền lương là giá của dịch vụ lao động). Ngược lại, giá cả thị trường của bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào sẽ giảm, không bị bất cứ cản trở nào, khi có thặng dư; hay số lượng cầu nhỏ hơn số lượng cung, trong thị trường đó (bao gồm cả thị trường lao động).

·        Sự cân bằng kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô

Bàn tay Vô hình với giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith và  Định luật Say đảm bảo cầu luôn bằng cung ở tất cả các thị trường riêng lẻ, bao gồm cả thị trường lao động hay thị trường nhân dụng, của nền kinh tế. Một cách chi tiết hơn, Định luật Say lý luận rằng tổng cung trong nền kinh tế luôn bằng tổng cầu.  Trong khi đó, Bàn tay Vô hình của Smith giả thuyết rằng sự thặng dư hay thiếu hụt, được hiểu là mất cân bằng, trong bất kỳ một thị trường riêng lẻ nào chỉ là trạng thái tạm thời vì giá của sản phẩm hay dịch vụ đó sẽ điều chỉnh nên sẽ đưa đến một trạng thái cân bằng mới. Và, đây là trạng thái quân bình vĩ mô trong nền kinh tế.

·       Các  biến đổi đưa đến bản chất của nền kinh tế “thị trường” ngày nay

Xuyên thời gian, lịch sử cho thấy rằng cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất (1760-1830), làm thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và quy trình sản xuất ở Anh; tiếp theo là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai (1870-1914) phát triển mạnh mẽ công nghệ không chỉ ở Anh một lần nữa, mà còn ở Đức, Mỹ và Pháp; tuy nhiên, với tốc độ chậm hơn ở Ý và Nhật.  Những cuộc cách mạng công nghệ này đã làm thay đổi cấu trúc và đặc điểm của nền kinh tế của họ một cách sâu rộng sau đây:

·       Đòi hỏi các cơ sở lớn hơn trong công cuộc sản xuất;  

·       Tăng năng suất lao động;       

·       Điều kiện làm việc cực kỳ tồi tệ và không an toàn cho người lao động;

·       Mức lương của người lao động không được điều chỉnh theo mức tăng của

                 năng suất nên rất thấp; và

·       Người lao động không thể thương lượng riêng lẻ để cải thiện điều kiện làm

                  việc và mức lương cao hơn ở các nền kinh tế này.

Các điều kiện kinh tế và xã hội trên đưa đến không những là nền tảng cho Karl Marx đưa ra Tư Bản Luận mà Lenin và Stalin đã dùng như là nền tảng lý thuyết để thiết lập nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong khối cộng sản mà còn những thay đổi sau đây trong thế giới phương Tây:

·                 Sản phẩm được kinh doanh theo hợp đồng quy định các thông số kỹ thuật

      của sản phẩm và giá của chúng trước khi giao hàng;      

·                 Thị trường chứng khoán được thành lập để xây dựng cơ sở sản suất; và

·                 Công đoàn được thành lập để đại diện/bảo vệ người lao động, dẫn đến hợp

      đồng lao động xác định trước mức lương của họ và cải thiện điều kiện

     làm việc.     

Các thỏa thuận hay hợp đồng trên đã thiết lập các rào cản pháp lý và xã hội, tạo ra những trở ngại cho khả năng và một số giá cả trong nền kinh tế không thể giảm khi thặng dư trong các trị trường riêng lẻ, nhất là trị trường lao động. Nói một cách khác, trong điều kiện kinh tế, chính trị, và xã hội mới, một số giá cả không thể giảm khi cung lớn hơn cầu; nhất là trong thị trường nhân dụng.  Điều này vi phạm giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith, tức là, cấu trúc giá tổng thể sau đó không thể giảm mà không bị cản trở, có thể hiểu là Bàn tay Vô hình của Smith đã  bị trói  bởi các thay đổi nêu trên.

·       Các khác biệt bản chất của các nền kinh tế của các quốc phát triển

Hai cuộc cách mạng kỹ nghệ tạo ra nhu cầu tài chính để xây dựng các cơ sở sản xuất cho công cuộc sản xuất quy mô đưa đến các vấn đề không thể dự đoán trong thị trường tài chính: khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng đầu tiên của thế kỷ 20.

Cuộc khủng hoảng bắt đầu khi ông Clarence Charles Hatry sử dụng tín dụng của doanh nghiệp của ông làm tài sản thế chấp để vay nợ ngân hàng để mua chuỗi các công ty sản xuất thép United Steel ở Anh và đã được ngân hàng cam kết cho vay; tuy nhiên,  đã rút cam kết vào phút cuối.

Để giải quyết vấn đề khẩn cấp và nghiêm trọng này cho dán, ông Hatry đã gian lận bằng cách in bản sao của các cổ phiếu đã phát hành của công ty của ông và sử dụng chúng làm tài sản thế chấp để vay mượn hầu tiếp tục công trình. Khi bị phát hiện, thị trường tài chính đã phản ứng một cách tiêu cực và vô cùng mạnh mẽ đưa đến các hiện tượng sau đây:

·        Giá trị cổ phiếu của công ty ông trở thành zero; và

·           Một cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến thị trường chứng khoán của tất

   cả các nước công nghiệp phát triển đi xuống không phanh.

·             Các rào cản pháp lý và xã hội nói trên đã ngăn cản thị trường lao động điều

chỉnh mức lương dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp lần lượt là hơn 25% và 20% ở Anh   và Mỹ;

·           GDP của các quốc gia bị ảnh hưởng đều thấp hơn GDP tiềm năng của họ khi

    lực lượng lao động được tận dụng, và,

·            Tình trạng thất nghiệp tồn tại dai dẳng.

 

 

·        Hệ quả của khủng hoảng tài chính đầu của thế kỷ 20

Theo giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith thì nạn thất nghiệp lần lượt là hơn 25% và 20% ở Anh và Mỹ, và rất cao tại nhiều quốc gia phát triển khác trong thị trường nhân dụng (mất quân bình vì số lượng người muốn làm việc cao hơn số người mà các cơ sở sản suất muốn xử dụng trong quá trình sản xuất, thị trường đơn lẻ trong mỗi nền kinh tế), chỉ là trạng thái tạm thời vì giá trong thị trường này (mức lương) sẽ giảm và sẽ tái lập một trạng thái cân bằng mới. Tuy nhiên, các hợp đồng lao động xác định trước mức lương đã vô hiệu hóa giả thuyết về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh nên thị trường nhân dụng tại các quốc gia này không thể thiết lập mức quân bình mới.

Kết quả tất yếu của vấn nạn không thể thiết lập mức quân bình mới trong thị trường nhân dụng đưa đến một phần của cơ sở sản xuất bị bỏ không là GDP của nền kinh tế trong điều kiện này sẽ thấp hơn GDP tiềm năng khi lực lượng lao động và cơ sở sản xuất được tận dụng trong quá trình sản xuất trong nền kinh tế.

·        Sự chào đời của các nền kinh tế thị trường hiện đại

Trong điều kiện kinh tế vừa trình bày trên, định luật Say cũng đảm bảo rằng số cung sẽ tạo ra số cầu hay sự cân bằng cung cầu vĩ mô; tuy nhiên, sự quân bình này chở mức độ GDP đươc sản xuất khi lực lượng lao động và cơ sở sản xuất không được tận dụng trong quá trình sản xuất của nền kinh tế. Đây được gọi là sự quân bình vĩ mô với mức độ nhân công xử dụng trong quá trình sản xuất thấp hơn lực lượng lao động (Macroeconomic equilibrium with less than full employment). 

Sự quân bình vĩ mô với mức độ nhân công xử dụng trong quá trình sản xuất thấp hơn lực lượng lao động nhưng mức lương nhân công trong thị trường nhân dụng không thể giảm do các khế ước lao động giữa nghiệp đoàn và lãnh đạo các cơ sở sản xuất nên không có lực lượng thị trường (market force) nào phá vở sự quân bình này. Kết quả tất yếu trên bình diện lý thuyết cũng như thực trạng của các nền kinh tế tại các quốc gia có công nghệ cao cho thấy là sự quân bình này không là trạng thái tạm thời mà rất dai dẵng từ năm 1929 đến năm 1933,  sau khi Keynes đưa ra giả thuyết mới lý giải bản chất và cách vận hành của hoạt động kinh tế vĩ mô và phương cách để đưa các nền kinh tế bị mắc kẹt ra khỏi vướng mắc.

Keynes lý giải rằng các nền kinh tế này bị mắc kẹt ở trạng thái quân bình  vĩ mô có GDP với mức thất nghiệp cao vì không có lực lượng thị trường hiện hữu nào kéo chúng ra khỏi tình trạng cân bằng này.  Từ lý giải này, Keynes (Keynes, 1936) triển khai một lý thuyết kinh tế mới mang tên ông, Kinh tế Vĩ mô Keynesian (Keynesian Macroeconomics hay chỉ Keynesian Economics) và gọi tất các lý thuyết về kinh tế được triển khải trước năm 1936 là trường phái Kinh tế Cỗ điển (Classical Economics).

Kinh tế Vĩ mô Keynesian cùng với các trường phái kinh tế vĩ mô khác sau đó đều, với các tầm cở khác nhau nào đó, xem sự can thiệp của chính phủ để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô quốc gia bằng chính sách Tài chính Công (Fiscal Policy) và chính sách Tiền tệ  (Monetary Policy) là cần thiết. Do đó, tất cả các quốc gia trên thế giới ngày nay, ngoại trừ Cuba và Bắc Hàn, đều có nền kinh tế với mức độ can thiệp khác nhau của chính phủ. Vì có sự can thiệp của chính quyền nên các các quốc gia này có nền kinh tế pha trộn/hỗn hợp (mixed economy). Và, quan trọng nhất là mục tiêu của các sự can thiệp là cải thiện phúc lợi của người dân.

·       Mục tiêu của chính sách và sự khác biệt giũa các nền kinh tế hiện nay

 

Ngày nay, mọi chính phủ đều triển khai chính sách kinh tế để điều hành (can thiệp) hoạt động kinh tế quốc gia. Chính sách kinh tế quốc gia đặt ra các mục tiêu kinh tế của chính phủ. Bởi vì mức độ can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế quốc gia khác nhau, nên các chính sách kinh tế giữa các quốc gia khác nhau sẽ phải dị biệt.

Mặc dù tầm quan trọng của các mục tiêu cấu thành của chính sách kinh tế có thể khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các chính sách kinh tế tại tất cả các quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp theo đuổi bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô chính sau đây:

·                 Hiệu quả (Efficiency);   

·                 Công bằng (Equity);         

·                 Tăng trưởng (growth); và

·                 Tính ổn định (Stability).

 

Về vấn đề phân chia sự khác biệt giữa các nền kinh tế hiện nay, khi chia sẻ với Đài Á Châu Tự do (RFA) người viết (RFA, 2024) lập luận rằng tuy khó khăn, phức tạp và gây tranh cãi, cũng như ranh giới của các phân chia có thể không được xác định rõ ràng; tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, các chính sách kinh tế hiện tại, ngoài Cuba và Bắc Hàn, có thể được phân loại như sau:

  (i)    Các chính sách kinh tế của các quốc gia độc đảng, tập trung vào việc bảo vệ

Đảng, quyền lực của các đảng viên và các quan chức chính phủ, có thể được phân loại là chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa. 

 

  (ii)    Chính sách kinh tế ở các nước dân chủ với vai trò của chính phủ ( mức độ

can thiệp của chính phủ) vào nền kinh tế tương đối thấp so với vai trò của thị trường (nguyên tắc thị trường), là những nền kinh tế tập trung tương đối nhiều hơn vào hiệu quả, tăng trưởng và ổn định, như nền kinh tế Mỹ, có thể được xếp vào chính sách kinh tế thị trường.  

 

        (iii)   Chính sách kinh tế ở các nước dân chủ có vai trò của chính phủ trong nền

kinh tế tương đối cao so với vai trò của thị trường, đó là những nền kinh tế quan tâm nhiều hơn đến sự công bằng, hiệu quả và ổn định, giống như nền kinh tế của các nước Bắc Âu, có thể được xếp vào chính sách kinh tế thị trường xã hội.

 

·       Vấn đề của cụm từ Kinh tế Thị trường ngày nay

Tất cả các nền kinh tế trên thế giới ngày nay đều có sự can thiệp của chính quyền và Mỹ cũng như khối Liên Âu (European Union - EU) là hai khu kinh tế quan trọng trên thế giới với chính quyền dân chủ. Tuy nhiên, chỉ có chính quyền Mỹ đòi hỏi các đối tác kinh tế phải, theo tiêu chí của họ, có nền kinh tế thị trường trong bối cảnh các cuộc điều tra chống bán phá giá. Trong khi đó, cụm từ kinh tế thị trường đã bị dùng một cách sai lệch mỗi ngày, ngay cả trên truyền thông, vì chủ thuyết kinh tế thị trường laissez-faire, triển khai dựa trên giả thuyết của Adam Smith và Say Law không còn có  tháp dụng để điều hành hoạt động kinh tế vĩ mô ngày nay.

Bên kia bờ Đại Tây Dương, vào tháng 12 năm 2017, EU đã xóa bỏ sự phân biệt giữa nền kinh tế thị trường và nền kinh tế phi thị trường trong bối cảnh các cuộc điều tra chống bán phá giá nên  không còn duy trì danh sách các nền kinh tế phi thị trường nữa. Thay vào đó, luật phòng vệ thương mại của EU phân biệt giữa các thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO) và các quốc gia không phải là thành viên WTO. Đối với các thành viên WTO, trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, EU sẽ điều tra liệu sự can thiệp của nhà nước có làm biến dạng đáng kể nền kinh tế của quốc gia xuất khẩu hay không. Các cuộc điều tra đó được tiến hành theo Quy định của EU về bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá từ các quốc gia không phải là thành viên của Liên Minh Châu Âu, tức là trong một khuôn khổ pháp lý riêng biệt.

Càng thú vị hơn nữa là ngay cả các quốc gia bị Mỹ cho vào danh sách các nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam với sự trợ giúp của các hiệp hội/hội đồng thương mại/cố vấn quốc tế hay khu vực, chẳng hạn như Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (Hội đồng) do ông Ted Osius, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam (2014-2017) và hiện giữ chức vụ Chủ tịch và Giám đốc Điều hành của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (Ted Osius, president & CEO of the US-ASEAN Business Council), Tri Duc (2024), cũng dựa vào sự kiện là cả nền kinh tế của Mỹ và Liên Âu đều có sự can thiệp của chính quyền cũng như sự khác biệt về  phương cách mà Mỹ và EU bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá mà không phân biệt hay cố phớt lờ sự khác biệt sâu rộng về chủ đích và phương cách can thiệp trong các nền kinh tế dưới thể chế dân chủ và thể chế độc đảng, toàn trị, để đưa ra những biện minh một cách đẩy chốt vuông qua lỗ tròn để yêu cầu Mỹ công nhận là các quốc gia này có nền kinh tế thị trường. 

 

·       Mỹ nói gì, Hà Nội nói gì về, Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, do cựu Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ted Osius, lãnh đạo biện minh sao cho nền kinh tế Việt Nam

Trong chính trường, lãnh đạo Mỹ chịu ảnh hưởng của ý kiến của người dân mạnh hơn là lãnh đạo của các quốc gia thành viên của Liên Âu. Do đó, trước khi tìm hiểu Mỹ nói gì và Hà Nội cùng Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN nói gì về nền kinh tế Việt Nam, chúng ta dành đôi phút để tìm hiểu văn hóa hay cách hành xử của ngườ Mỹ. Theo Nguyen, Hiệp, và Lộc (2021), văn hóa của Mỹ có những điểm trội yếu sau đây. 

Người Mỹ:

·                 Rất tự hào về tự do và thịnh vượng của đất nước họ;

·                 Thực sự muốn tất cả các dân tộc khác trên thế giới được tự do và thịnh vượng

     như họ; nhưng,

·                 Cho rằng nếu các dân tộc khác muốn được tự do và thịnh vượng như họ, các

    dân tộc đó phải hành xử như người Mỹ.

Một điểm trội quan trọng nữa về văn hóa của Mỹ là mặc dù chính sách ngoại giao dường như thực thi bằng chiến thuật và chiến lược trực thăng vận (helecopter foreign policy) với bản chất trao đổi để thỏa mãn những mục tiêu của từng giai đoạn, chấp nhận giải pháp thứ cấp (second best); tuy nhiên, sau thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ đã thành lập và liên tục duy trì nền hoà bình Mỹ (Pax Americana), với mục tiêu của chính sách đối ngoại là tối đa hóa phúc lợi của công dân Hoa Kỳ, đảm bảo hòa bình thế giới, thịnh vượng kinh tế, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền mọi nơi. Hơn nữa, Các nước dân chủ tự do can thiệp vào thị trường là để cải thiện phúc lợi của người dân, không tập trung quyền lực vào tay một đảng chính trị, mà nhằm bảo đảm sự hiệu quả, công bằng/bình đẳng, tăng trưởng, ổn định kinh tế và xã hội.

Trong khi đó, nguyên Chủ Tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nguyễn Văn Thưởng (https://youtube.com/shorts/vpNRHI4RTI4?si=oOqRU7IqFzvtcgpB) khi còn tại chức có lẽ quá tự hào/tự luyến Xã hội Chủ nghĩa nên đã không quan tâm đến lời cảnh báo “biết người, biết ta; thì trăm trận, trăm thắng” của Tôn Tử và Mỹ không phải là Việt Nam nên đã dõng dạc phát biểu:

Đề nghị Hoa Kỳ quan tâm, công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Tôi cho rằng cái việc công nhận quy chế kinh tế thị trường phải bằng quyết sách chính trị, chứ không phải là bằng lộ trình của các bước đi theo những cái quy định luật pháp một cách cứng nhắc, mà phải bằng quyết tâm chính trị bởi vì chúng ta là đối tác chiến lược toàn diện.”

 

7.1.  Mỹ nói gì về kinh tế thị trường

Có lẽ vì các yếu tố trên mà chính phủ Mỹ, qua BTM, đã dựa theo các tiêu chí luật định được quy định trong mục 771 (18) của Đạo luật Thuế quan năm 1930 để đưa ra 6 tiêu chí sau đây để xem xét các quốc gia đối tác có “nền kinh tế thị trường” hay không:

·                 Tiền tệ của quốc gia đó có thể chuyển đổi;    

·                 Mức lương của nhân công là kết quả của thương lượng tự do giữa lao động và

      lãnh đạo doanh nghiệp;    

·                 Liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài được phép;    

·                 Chính phủ sở hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất;  

·                 Chính phủ kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và sản lượng; và,

·                 Bộ Thương Mại cũng có thể xem xét các yếu tố khác mà BTM cho là phù hợp.

Phân tích 6 tiêu chí trên cho thấy ngoại trừ tiêu chí cuối cùng còn không rõ ràng và ẩn hiện màu sắc chính trị, liệu Việt Nam có đáp ứng được đầy đủ năm tiêu chí đầu tiên hay không? 

7.2.  Hà Nội nói gì về và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN biện minh sao cho

            nền kinh tế Việt Nam

 

Đây không phải lần đầu tiên Hà Nội yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường; tuy nhiên, điều kiện kinh tế Việt Nam,  từ sau khi đổi mới cho đến gần đây, chưa rơi vào trình trạng khó khăn mà Đảng và các quan chức Việt Nam gần như bất lực như ngày nay.  Do đó, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden đến Việt Nam vào tháng 9/2023 và nâng cấp quan hệ hai nước lên “đối tác chiến lược toàn diện”, Việt Nam đã yêu cầu Hoa Kỳ công nhận mình có kinh tế thị trường. 

Trong tuyên bchung của hai nước, Tổng thống Biden khẳng định sẽ xem xét yêu cầu này. Tiếp theo đó, nhiều lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã bày tỏ nguyện vọng này của Việt Nam với người đồng cấp trong chính phủ Mỹ. Đồng thời, Hà Nội chi trả rất nhiều trong công cuộc vận động này như thuê công ty công ty vận động hành lang (Lobbying company). Điều này cho thấy tầm quan trọng của sự công nhận của Mỹ đối với Đảng và quan chức Việt Nam trong những tháng năm tới.

 

      7.2.1.  Lý do Đảng và quan chức Việt Nam tận dụng mọi phương tiện và cơ hội

                 để yêu cầu Mỹ công nhận quốc gia này có nền kinh tế thị trường

Trong bài phân tích về lý do tại sao Đảng và quan chức Việt Nam huy động gần như toàn bộ các thành phần của nhà nước để thực thi Nghị quyết 1334, người viết (2024) trích dẫn dữ liệu thống kê từ do International Monetary Fund (IMF) để chỉ rằng chỉ ra rằng:

·                 Tổng số trị giá xuất và nhập cảng chia cho GDP của  nền kinh tế Việt Nam luân chuyển từ 152,90 đến 178,10 phần trăm của GDP trong những năm gần đây: rất cao, mang ý nghĩa là nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc cực kỳ cao và quấn quyện vào trình trạng kinh tế thế giới.

 

·                 Trong năm 2022, xuẩt siêu từ Việt Nam sang Trung Quốc, Mỹ và toàn khối Liên Âu theo thứ tự là: -59.235,65, 94.672,73, và 27.476,65; đây là chưa khấu trừ số hàng mà Việt Nam  nhập lậu lạu vào từ Trung Quốc và kiều hối.

 

·                 Người viết (2024) cúng trích dẫn dữ liệu thống kê 2023 từ IMF (2024) cho thấy toàn bộ cán cân mậu dịch của Việt Nam với toàn thế giới chỉ thặng dư 12 tỷ Mỹ kim, mà trong đó 16 tỷ Mỹ kim là kiều hối và chưa khấu trừ giá trị nhập cảng lậu từ Trung Cộng để kết luận rằng đằng sau bức tranh gần như tuyệt tác do báo chí tô vẽ, hoạt động kinh tế vĩ mô của Việt Nam thật sự khá tồi tệ.

Ngoài ra người viết (2024) lập luận rằng “Do được điều kiện hóa trong một văn hóa, môi trường kinh tế và kinh doanh của phần định hướng của xã hội chủ nghĩa - bao gồm cả chính sách công hữu và đặt lãnh vực quốc doanh vào vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế của chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chính phủ VN đã theo đuổi trong nhiều thập niên, nên trong quá trình hội nhập hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà cũng không cần kiến tạo một xã hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch.  Do đó, để giải quyết vấn đề mỗi lúc một khó khăn hơn này, Hà Nội đã nhiều lần xin các đối tác ngoại thương công nhận nền kinh tế VN là nền kinh tế thị trường; nhưng cho đến nay, mọi yêu cầu đều bị khước từ.”

Từ một góc độ khác của vấn đề trên, Busch (2017) đã cảnh báo rằng: “Việc áp dụng thận trọng và có trình tự các thể chế thị trường của Việt Nam đã mang lại hơn hai thập niên hoạt động kinh tế ấn tượng, trong khi nền kinh tế chính trị cơ bản của đất nước phần lớn vẫn còn nguyên vẹn” và “ ....Tuy nhiên, tái cơ cấu kinh tế thành công cũng góp phần vào thách thức kinh tế chính của Việt Nam hiện nay, cụ thể là làm thế nào để giải quyết ‘trung gian còn thiếu’ - thiếu một khu vực tư nhân trong nước hiệu quả.”

     7.2.2. Tổng quan khác biệt giữa sự can thiệp của quan chức Việt Nam và M

 

Trước khi đi sâu vào vấn đề  Hà Nội và thư gữi BTM Mỹ của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN nói gì về nền kinh tế Việt Nam, xin dành đôi phút để so sánh mục đích của sự can thiệp vào thị trường của quan chức Việt Nam và quan chức Mỹ.  Theo Tiến sỹ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ (Radio Free Asia - RFA, 2024), “Hoa Kỳ và các nước tư bản phát triển có chính sách nâng đỡ cả một ngành kinh tế, ở tầm vĩ mô, là hỗ trợ cho cả một ngành, một thị trường, hoặc để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, chkhông nhắm đến một doanh nghiệp cụ thể. Do đó, họ chỉ làm chính sách nâng đỡ chứ không can thiệp. Tiến sỹ Vũ (RFA, 2024) cũng chỉ ra rằng tác vụ của chính phủ Mỹ vào thị trường còn có mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, như cấm bán chip tiên tiến cho Trung Quốc.

Trong trường hợp vừa nêu, Việt Nam có thể biện luận rằng Hoa Kỳ làm như vậy, ngay cả trong vấn đề hỗ trợ nghiên cứu thì cũng là can thiệp vào thị trường. Tuy nhiên, Tiến sỹ Vũ (RFA, 2024) phản biện rằng ở đây vẫn có sự khác biệt rất lớn giữa hai quốc gia.  Tác vụ của Mỹ là sự can thiệp ở tầm vĩ mô, khác với cách can thiệp của Việt Nam là can thiệp ở tầm vi mô. Chính phủ Việt Nam có thể can thiệp bằng cách cung cấp nguồn lực về tài chính, đất đai cho từng doanh nghiệp nhà nước cụ thể, để những doanh nghiệp này thống lĩnh thị trường, đè bẹp các doanh nghiệp tư nhân khác trong ngành. Nó tạo ra những lợi ích riêng cho một nhóm nào đó hoặc theo đuổi một mục đích nào đó.” 

 

     7.2.3. Việt Nam biện minh và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN yểm trợ

                  yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường

 

Trong tài liệu yêu cầu BTM Mỹ duyệt xét để mang Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, Hà nội đã cố chứng minh rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và quan chức của Việt Nam theo đuổi và cải thiện nhiền măm qua thỏa mãn 6 tiêu chí mà BTM Mỹ căn cứ khi đánh giá yêu cầu của họ. Sau đây là điểm trội của các lập luận của Hà Nội và trong thư của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gửi BTM Mỹ yểm trợ yêu cầu của Việt Nam để chứng minh mỗi tiêu chí nêu trên của BTM Mỹ:

      7.2.3.1.  Tiền tệ của quốc gia đó có thể chuyển đổi    

Đối với tiêu chí này, Hà Nội lý giải rằng “đồng tiền của Việt Nam có thể chuyển đổi sang tiền tệ của các nước khác một cách minh bạch dựa trên các nguyên tắc thị trường, công bằng và không phân biệt đối xử. Hà Nội còn tuyên bố rằng Bộ Tài chính (BTC) Mỹ trước đó đã xác nhận Việt Nam không thao túng tiền tệ”. 

Đồng thời, thư của Hội đồng gữi BTM Mỹ yểm trợ yêu cầu của Việt Nam lập luận rằng: “Quy định về tiền tệ của Việt Nam xác định rằng VNĐ hoàn toàn có thể chuyển đổi cho mục đích tài khoản vãng lai. Vào cuối những năm 2000, một số công ty của chúng tôi đã gặp khó khăn trong việc chuyển tiền ra khỏi Việt Nam không phải vì các quy tắc đã làm, mà vì không có đủ USD trong hệ thống. Nhưng đó không còn là vấn đề hiện nay nữa. Trong hơn 10 năm qua, không có công ty nào trong số hơn 130 công ty thành viên của chúng tôi làm ăn với Việt Nam báo cáo bất kỳ vấn đề nào vkhả năng chuyển đổi tiền tệ.”

Trong khi đó, Bộ Tài chính (BTC) Mỹ chỉ định một đối tác thao túng ngoại hối dựa trên giới hạn của ba tiêu chí cơ bản sau đây:

·                 Thặng dư thương mại song phương ít nhất là 20 tỷ Mỹ kim (US Dollar – USD)  

     trong giai đoạn 12 tháng.

·                 Thặng dư tài khoản vãng lai ít nhất 2% tổng GDP.

·                 Can thiệp một chiều từ phía ngân hàng trung ương khi mua ròng ngoại tệ tổng cộng ít nhất 2% GDP được thực hiện trong khoảng thời gian 12 tháng liên tục. 

 

Hiện nay, Việt Nam vẫn có thặng dư thương mại hơn 130 tỷ USD với Hoa Kỳ,  thặng dư tài khoản vãng lai là 5,8% GDP, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mua ròng số ngoại tệ bằng 1,5% GDP. Do đó, Việt Nam đang vi phạm hai trong ba tiêu chí cơ bản trên nên vẫn nằm trong danh sách cần theo dõi xem có thao túng tiền tệ hay không. Nếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ gia tăng số lượng mua ngoại tệ ròng hơn 0,5% GDP, Việt Nam có thể bị đưa vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ.

Thật ra, chỉ cách đây không lâu, vào Thứ Sáu ngày 16 tháng 4 năm 2021 BTC Mỹ mới đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ nhưng vẫn còn trong những quốc gia sẽ được tăng cường giám sát.

 7.2.3.2.  Mức lương của nhân công Việt Nam  là kết quả của thương lượng

              tự do giữa người lao động và quản lý doanh nghiệp

 

Về tiêu chí này, Hà Nội tuyên bố rằng mức lương ở Việt Nam được xác định qua thương lượng tự do giữa người lao động và quản lý doanh nghiệp. Mức độ tham gia đàm phán tiền lương của chính phủ còn hạn chế. 

Trong thư gữi BTM Mỹ để yểm trợ Hà Nội trong lãnh vực này, Hội đồng tuyên bố rằng họ “bác bỏ những tranh cãi ngược lại và nhấn mạnh rằng mức lương ở Việt Nam được xác định bằng thương lượng tự do giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Bộ luật Lao động của Việt Nam có xu hướng ủng hộ người lao động, đặc biệt là người lao động lương thấp, Hội đồng lưu ý rằng chính phủ xác định mức lương tối thiểu dựa trên các khuyến nghị từ Hội đồng Tiền lương Quốc gia.

Tất cả các công ty thành viên của chúng tôi (các công ty ngoại quốc tại Việt Nam) đề nghị trả lương cao hơn mức lương tối thiểu. Các công ty hội viên không có khiếu nại về khả năng tự do đàm phán hợp đồng lao động, bao gồm gói lương và phúc lợi nhân viên, với lao động tại Việt Nam”.

Lập luận và tuyên bố của cả Hà Nội và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN hoàn toàn không đi đôi với những gì mà Thu Lan (2017), Nguyen, Hiệp, và Lộc (2021), và người viết (RFA, 2024) chỉ ra đã và đang xảy ra tại Việt Nam:

·                 Theo luật lao động Việt Nam, một cuộc đình công hợp pháp phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất, phải tuân theo trình tự quy định trong bộ luật lao động, trong đó không được phép đình công về quyền; và thứ hai, phải do tổ chức công đoàn lãnh đạo.

·                 Về vấn đề Công Đoàn Độc lập, người viết (RFA, 2024) chỉ rằng Việt Nam đã cam kết với Hoa Kỳ và trong các thương ước EVFTA, PCA (EU-Vietnam Framework Agreement on Comprehensive Partnership and Cooperation, PCA) và CPTPP là sẽ phê chuẩn và tuân thủ Công ước 87 của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Organization, ILO) về tự do lập hội và bảo vệ quyền thành lập tổ chức công đoàn độc lập vào cuối năm 2023. Nhưng nay đã đến gần cuối năm 2024 nước này vẫn chưa tuân thủ. Cho đến nay, Việt Nam vẫn không cho phép thành lập tổ chức công đoàn độc lập trong nước.

·                 Mới đây, vào ngày 24 tháng 4 năm 2024, Hà Nội bắt ông Nguyễn Văn Bình, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Ông Bình được cho là đang vận động phê chuẩn Công ước 87 của ILO, nhằm bảo đảm cho người lao động quyền thành lập công đoàn độc lập.  Vụ bắt giữ ông Nguyễn Văn Bình đánh dấu lần đầu tiên một nhà cải cách của chính phủ bị giam giữ trong những năm gần đây.

 

·                 Một nhà hoạt động khác vì quyền của lao động là ông Vũ Minh Tiến, Trưởng phòng Chính sách, Pháp luật của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cũng bị bắt vào tháng 4 năm 2024. Ông cũng được cho là người vận động phê chuẩn Công ước 87 của ILO. người viết (RFA, 2024) cho biết đó là chưa kể đến nhiều nhà hoạt động khác vì quyền lợi của người lao động bị vu oan, phải trốn khỏi Việt Nam hoặc bị bắt, cầm tù với mức án dài hạn.

·                 Cho đến cuối năm 2020 đã có gần 7.000 cuộc đình công diễn ra trên cả nước nhưng không một cuộc đình công nào hơp pháp; càng thú vị hơn là hầu hết các cuộc đình công này xảy ra tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (the foreign invested enterprise - FIE) từ các quốc gia trong vùng Đông Nam Á.

 

·                 Thu Lan (2017) chỉ ra các nguyên nhân sau đây để giải thích tại sao tất cả các cuộc đình công đều không hợp pháp và Tổng Liên Đoàn Lao Động VN (TLĐLĐVN) hiện nay không đại diện cho nhân công và cũng không thể tổ chức đình công. “Điều 209 bộ luật lao động quy định ‘việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích’”, được hiểu là: chỉ được phép đình công liên quan tới các tranh chấp lao động phát sinh khi thiết lập các điều kiện lao động mới chưa được quy định trong luật hay trong thỏa ước lao động tập thể hiện hành. Đình công về quyền, tức là các cuộc đình công về các điều kiện lao động đã quy định trong luật, cũng như trong thỏa ước tập thể, bị xem là bất hợp pháp.

 

·                 Người viết (RFA, 2024) chỉ ra rằng TLĐLĐVN trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là tổ chức ngoại vi của ĐCSVN. Và Chủ tịch TLĐLĐVN Việt Nam hiện nay là ông Nguyễn Đình Khang - Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam nhiệm kỳ 2015–2020. TLĐLĐVN thay mặt các thành viên tiến hành thương lượng tập thể theo hình thức xin cho

 

·                 Với sứ mệnh của tổ chức chính trị-xã hội, TLĐLĐVN đóng vai trò “cầu nốigiữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm nỗ lực xây dựng “quan hệ lao động hài hòa”, bảo đảm thực hiện cả mục tiêu về việc làm và sản xuất. Vì vậy, đình công bị xem là không tạo dựng môi trường ổn định để phát triển đất nước. Ngay cả đối với thương lượng tập thể, công đoàn cũng thực hiện đàm phán, ký kết thỏa ước tập thể để cải thiện quyền lợi cho người lao động theo cách “làm thay” cho người lao động và người lao động không trực tiếp tham gia vào quá trình này.

Những lập luận của Hà Nội và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, do cựu Đại Sứ Mỹ, ông Ted Osius, lãnh đạo để biện minh trong tiêu chỉ này khá rỏ nét của lý luận một cách  đẩy chốt vuông qua lỗ tròn. Vì cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có công đoàn độc lập mà chđược đại diện bởi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nên người lao động  không ththương lượng tự do với quản lý doanh nghiệp.

·                  Liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài được phép tại Việt Nam

Về vấn đề Liên doanh hoặc đầu tư của các công ty nước ngoài được phép tại Việt Nam, Hà Nội cho rằng trên thực tế Việt Nam đã trở thành một điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Từ năm 2018 đến tháng 6/2023, toàn quốc có 14.553 dán còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 102,24 tỷ USD từ 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Thư của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gửi BTM Mỹ yểm trợ yêu cầu của Việt Nam lập luận rằng “Năm 2014, Việt Nam đã giảm số lượng các ngành công nghiệp bị hạn chế (đối với người nước ngoài) từ 386 xuống còn 272. Ngày nay, chỉ có 25 ngành công nghiệp vẫn nằm ngoài giới hạn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Hầu hết các ngành công nghiệp thuộc các quy định nghiêm ngặt hoặc được chính phủ coi là rất nhậy cảm về chính trị, đều thuộc các lĩnh vực như điều tra và an ninh, báo chí và chất nổ.

Trên thực tế, với sự tham vấn chặt chẽ với ngành công nghiệp, bao gồm cả Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, chính phủ đã thực hiện một chương trình cắt giảm những hạn chế đó, chẳng hạn như giảm hoặc loại bỏ các yêu cầu cấp phép và tăng hoặc loại bỏ giới hạn sở hữu nước ngoài (foreign ownership limits - FOL)”.

Thực tại thì ngoài các doanh nghiệp quốc doanh theo luật định tại Việt Nam, một sự thât khó có thể phủ nhận, dù đảng và quan chức cố che dấu, là tất cả quan chức đều có sân sau, tiêu biểu là Tô Lâm với AVG và tập đoàn Xuân Cầu, Nguyễn Phú Trọng với Ciputra, cùng vô số các sân sau khác. (Dù không có cơ bản pháp lý là các sân sau này là các doanh nghiệp độc quyền, nhưng thực chất là không một cơ sở tư nhân nào có thể cạnh tranh và liên doanh với công ty ngoại quốc sẽ cản trở cơ hội bòn rút của quan chức chống lưng). Một lãnh vực nữa là nhân danh an ninh quốc gia, quân đội Việt Nam làm kinh tế.  Quân đội Việt Nam đã nhúng tay vào nhiều lãnh vực kinh tế;  Ngân hàng Quân đội, MB, Công ty Tân Cảng Sài Gòn, và  Viettel là một vài lãnh vực đơn cử.   Vì quan chức cấp cao trong Đảng và nhà nước, tướng lãnh quân đội là đảng viên nên, một cách gián tiếp nhưng vô cùng hữu hiêu, Đảng và nhà nước Việt Nam kiểm soát các phương tiện sản xuất này.

Về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Phương Dung (2024) tường trên VNExpress ngày11 tháng 10, năm 2024 như sau:

“Thông tin nêu tại báo cáo Chính phủ gửi Quốc hội về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh năm 2023 của 671 doanh nghiệp nhà nước. Số này gồm 473 doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ và 198 đơn vị có trên 50% vốn Nhà nước.

 

Theo đó, 134 doanh nghiệp còn lỗ lũy kế, tổng cộng 115.270 tỷ đồng, tương đương 4,6 tỷ USD (tính theo tỷ giá quy đổi ngày 8/10) tới cuối năm ngoái. Mức lỗ lũy kế này gấp 1,7 lần so với ghi nhận cuối năm 2022 (gần 69.900 tỷ đồng).

 

Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp có lãi trên 5.000 tỷ đồng chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty. Chẳng hạn, trong lĩnh vực năng lượng, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) lãi trước thuế gần 56.400 tỷ đồng; Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lãi sau thuế 6.329 tỷ.”

·                   Chính phủ sở hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất

Hà Nội quả quyết trong văn kiện yêu cầu Mỹ đem Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường rằng chính phủ Việt Nam không sở hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất ở một mức độ đáng kể.

Thư của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gữi BTM Mỹ cho rằng “Mặc dù Việt Nam không cho phép tư nhân sở hữu đất đai như Hoa Kỳ, nhưng Việt Nam có một thị trường bất động sản thứ cấp mạnh mẽ cho các mục đích công nghiệp và nhà ở, cho phép các bên chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại và góp vốn hoặc thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. ‘Trên thị trường thứ cấp, các bên được tự do đàm phán về giá chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Chính phủ không can thiệp vào các giao dịch đó’.

Chính phủ Việt Nam vẫn nhấn mạnh ‘vai trò chủ đạo’ của khu vực kinh tế quốc doanh, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, đất đai, tài nguyên, thu thuế, quỹ của chính phủ, hệ thống bảo hiểm xã hội và y tế, hệ thống dịch vụ tài chính, hệ thống cơ sở hạ tầng, v.v....

Tuy nhiên, ảnh hưởng thực tế của khu vực này đối với nền kinh tế đã giảm dần, dẫn đến sự nổi bật của các khu vực ngoài nhà nước, bao gồm khu vực tư nhân trong nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (the foreign invested enterprise -FIE).”

Nếu nhìn vào thực tế của nền kinh tế Việt Nam sẽ thấy các vấn đề trái ngược sau đây:

·                 Theo luật pháp Việt Nam “nhân dân nắm giữ tất cả các quyền sở hữu với nhà nước là người quản lý” nên không một người dân nào được phép sở hữu đất đai ở Việt Nam mà phải mua quyền sử dụng và quyền thay đổi mục đích sử dụng đất. Khung giá cho các quyền này do quan chức quy định và là cơ hội để các quan chức lợi dụng chức quyền để thu tóm tài sản của người dân và ngân sách nhà nước.

 

·                 Thị trường xăng dầu, điện, Vietnam Airline do nhà nước độc quyền khai thác. Và, qua Ngân hàng Nhà nước, quan chức Việt Nam kiểm soát toàn bộ thị trường vàng và lĩnh vực tài chính ngân hàng vì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có độc quyền mua bán vàng cũng như kiểm soát hoàn toàn lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Một sự thât khó thể phủ nhận, dù Đảng và quan chức cố che dấu, là ảnh hưởng của sân sau của tất cả quan chức trong nền kinh tế đến vấn đề chính phủ sở hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất. Như đã trình bày trên, dù không có cơ bản pháp lý là các sân sau là các doanh nghiệp độc quyền, nhưng thực chất là không một cơ sở tư quốc gia hay ngoại quốc nào có thể cạnh tranh với chúng. Một câu nói rất phổ thông tại nhiều quốc gia tham nhũng là “rất khó cho quan chức phê chuẩn một dự án nhưng rất dễ cho họ bác bỏ hay làm chậm tiến độ của một dự án trên bàn giấy của họ”. Vì quan chức trong Đảng và nhà nước là đảng viên, một cách gián tiếp nhưng vô cùng hữu hiêu, Đảng và nhà nước Việt Nam kiểm soát các phương tiện sản xuất trong nền kinh tế.  

Một kênh rất tiềm ẩn và vô cùng hữu hiệu mà chính phủ kiểm soát các phương tiện sản xuẩt trong nên kinh tế quốc gia là bằng cách kiểm soát hệ thống ngân hàng và tài chính qua sự kiểm soát Ngân hàng Nhà nước.  Lý giải vấn đề này vượt quá phạm vi của bài viết; tuy nhiên xin ghi nhận các điểm trội sau đây của lý thuyết về chính sách tiền tệ của Mỹ.

Các mục tiêu của chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ (và của hầu hết các quốc gia khác) là:

·                 Thúc đẩy sản lượng và việc làm bền vững “tối đa”;

·                 Thúc đẩy giá “ổn định”.

·                 Duy trì tăng trưởng dài hạn của tổng hợp tiền tệ và tín dụng để đạt được hiệu quả các mục tiêu về việc làm tối đa giá cả ổn định và lãi suất dài hạn vừa phải.

Nói cách khác, sứ mệnh của Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System - Fed) là gimức độ lạm pháttỷ số thât nghiệp dưới mức chấp nhận được. Khó khăn cho Fed trong sứ mệnh được giao phó là hai biến số kinh tế vĩ mô này hoán đổi lẫn nhau, được hiểu là khi Fed áp dụng công cụ của chính sách tiền tệ phản chu kỳ quá độ để hạ mức độ lạm phát quá độ sẽ đẩy tỷ số thât nghiệp lên cao, và ngược lại.

Và, để hoàn thành sứ mệnh khó khăn được giao phó, Fed dùng các công cụ (instruments) sau đây để điều chỉnh khi mức độ lạm phát hay tỷ số thất nghiệp vượt cao hơn mức độ chấp nhận được, mà trong thuật  ngữ kinh tế được gọi là chính sách tiền tệ phản chu kỳ (Coutercyclical Monetary Policy):

·       Thị Trường Mở Liên bang (Federal Open Market Operations);

·       Tỷ số dự trữ bắt buộc (Required Reserve Ration);

·       Lãi Suât Quỹ Dự trữ Liên bang cho các ngân hàng thương mại hội viên

·            vay mượn (discout rate);

·       Lãi suất mà Fed trả cho tài khoảng mà ngân hàng hội viên ký thác tại

   Fed (một phần của dự trữ bắt buộc).

 

Tài nguyên quốc gia, tình trạng kinh tế, yếu tố địa chính trị, và xã hôi trong nước cũng như  trên thế giới cùng với tốc độ thăng tiến của xã hội, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, phải khác từ thời điểm này sang thời điểm khác qua thời gian. Do đó, dù một vấn đề kinh tế ngày nay có hoàn toàn giống vấn đề trong quá khứ, cường độ, quá trình thực thi (cắt giảm hay gia tăng mức độ gia tăng của các công cụ), và thời gian để chính sách tiền tệ giải quyết vấn đề kinh tế trong quá khứ đó không còn hữu hiệu để khắc phục vấn đề hôm nay, mà chúng chỉ có thể là một chỉ điểm cho công trình “lần đá qua sông”,  để khắc phục vấn đề thất nghiệp hay lạm phát trong nền kinh tế quốc gia hiện tại.

Hơn nữa, lịch sử của chính sách tiền tệ Mỹ cho thấy rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ cần 8 đến 12 tam cá nguyệt (hay 2 đến 3 năm) để hoàn chỉnh; do đó, quá trình triển khai và thực thi chính sách tiền tệ phải qua nhiều bước để tránh áp dụng công cụ của chính sách tiền tệ phản chu kỳ quá độ. Vì phải lần đá qua sông, nên sau mỗi bước Fed (hay ngân hàng nhà nước của bẩt cứ quốc gia nào)  phải chờ đợi, theo dõi, dự phóng xem bước đó đã giúp đạt mục tiêu mong muốn chưa, và điều này cần thời gian.

Như vừa trình bày trên, sứ mệnh của các ngân hàng trung ương của các quốc gia dân chủ chỉ vỏn vẹn là gimức độ lạm pháttỷ số thât nghiệp dưới mức chấp nhận được. Một điểm vô cùng quan trọng mà lý thuyết về chính sách tiền tệ đã chứng minh, đồng thời thực tiễn đã xác nhận là để có thể hoàn thành sứ mênh trọng đại này, các ngân hàng trung ương phải khả tín hay có uy tín đối với thị trường tài chính.  Muốn tạo được khả tín hay uy tín thì ngân hàng trung ương phải nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu của biến số kinh tế vĩ mô khi đã đặt ra (hoặc mức độ lạm phát hay tỷ số thất nghiệp) cho đến khi đạt đươc mục tiêu tuyên b; nếu bỏ dở sẽ mất sự khả tín hay uy tín đối với thị trường tài chính và ngân hàng. Kết quả tất yếu là thị trường tài chính cũng như hệ thống ngân hàng sẽ không tin khi ngân hàng trung ương tuyên bố mục tiêu của chính sách tiền tệ kế tiếp.

Nếu quan sát các quốc dân chủ, ngân hàng trung ương tại các nền kinh tế này rất nhất quán và kiên trì theo đuổi cho đến khi đạt được mục tiêu của lạm phát hay tỷ số thất nghiêp mà họ đã đặt ra và tuyên bố. Do đó, uy tín của họ đối với thị trường tài chính và ngân hàng rất cao.  Khi ngân hàng trung ương có uy tín tuyên bố cắt giảm hay gia tăng lãi suất, ngân hàng thương mại phản ứng bằng cách giảm hay gia tăng lãi suất cho vay của chúng đồng chiều (có thể không cùng mức độ) với ngân hàng trung ương.  Phản ứng này chuyển tải tác vụ của  chính sách  tiền tệ tuyên bố đến thị trường tài chính. Ngược lại, nếu ngân hàng thương mại không tin hay hoài nghi là ngân hàng trung ương sẽ kiên trì theo đuổi cho đến khi đạt được mục tiêu, chúng sẽ không phản ứng đồng chiều; do đó, chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ không thành công.

Trong khi đó, người viết (2015-a, và 2015-b) cho rằng ngoài trách nhiệm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính,  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn phải trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả (bao gồm cả các ngân hàng thương mại nhà nước với một số lớn nợ khó đòi -  non performaced loans), các dán phát triển công/hạ tầng cơ sở do quốc hội ủy quyền, thâm hụt ngân sách quốc gia (bao gồm thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc) và các nghĩa vụ tài chính quốc tế khác của chính phủ.

Vì quá nhiều mục tiêu trong sứ mệnh và một số trong các mục tiêu này đòi hỏi những chính sách tiền tệ trái ngược nhau để đạt đến, nên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không thể nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu của biến số kinh tế vĩ mô đã đặt ra và đang theo đuổi cho đến khi đạt đươc mục tiêu tuyên bố.  Điều này làm tổn hại đến uy tín nên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không thể thực thi chính sách tiền tệ phản chu kỳ một cách hữu hiệu.

Để hoàn tất sứ mệnh được giao phó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thực hiện chính sách tiền tệ theo kiểu lập đi lập lại (on again, off again manner). Điều này dẫn đến các giai đoạn lạm phát cao sau đó là tín dụng thắt chặt và lãi suất cao, thường dẫn đến thất bại trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thất bại chủ yếu là tư nhân vì họ không có trợ cấp từ ngân sách hoặc đặc quyền vay mượn. Hơn nữa, tỷ lệ lạm phát cao làm giảm thu nhập quốc dân thật, gây ra sự bất mãn và bất ổn xã hội có thể xảy ra và tạo ra sự bất ổn theo chu kỳ, phá sản cá nhân và làn sóng đầu cơ trên thị trường bất động sản và chứng khoán. Điều này làm gia tăng sức mạnh tương đối của khu vực quốc doanh, gián tiếp gia tăng mức độ kiểm soát các phương tiện sản xuất của nhà nước.

·                   Chính phủ kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và

     sản lượng

Để lý giải rằng nền kinh tế Việt Nam đủ tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường, Hà Nội lập luận rằng chính phủ Việt Nam không có quyền kiểm soát đáng kể đối với việc phân bổ nguồn lực hoặc quyết định giá cả và sản lượng của doanh nghiệp. Đồng thời, thư của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN gửi đến BTM Mỹ để yểm trợ yêu cầu của Hà Nội cho rằng Chính phủ Việt Nam không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm các quyết định phân bổ nguồn lực, giá cả và sản lượng.

Một lần nữa, nếu quan sát kỹ hơn sẽ cho thấy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đặt khu vực công làm vai trò hàng đầu trong kế sách phát triển kinh tế quốc gia và cũng là sân sau cho các nhà lãnh đạo tham nhũng. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Việt Nam nhận được sự đối xử ưu tiên về cơ hội và nguồn lực, cả về tài chính và các phương tiện khác. Ngoài ra, các DNNN này rất kém hiệu quả và là cơ sở cho tham nhũng của các nhà quản lý là đảng viên Đảng Cộng sản và được Đảng lựa chọn để quản lý các DNNN này. Do đó, họ tiếp tục hoạt động với mức lỗ đáng kể hàng năm và các khoản lỗ được chi trả bởi ngân sách, tức là thuế. Thị trường xăng dầu, thị trường điện, Vietnam Airline, Ngân hàng Trung ương Việt Nam có quyền lực độc quyền trong việc nhập khẩu và bán vàng. 

Lý thuyết kinh tế vi mô đã chứng minh, thực tế đã xác nhận độc quyền sẽ có giá cao thêm vào tham nhũng và quan chức lãnh đạo kém khả năng giá cả không những cao mà còn không ổn định.  Đây là thực trạng của giá cxăng dầu, điện, và di chuyển. Đối với cơ sở sản xuất, tất cả các chi phí trong quá trình sản xuất, kể cả phí “bôi trơn”, sau cùng là chi phí sản xuất. Tất yếu là các chi phí này sẽ là cấu phần của giá sản phẩm hay dịch vụ khi đến tay người tiêu dùng. Do đó, dù vô tình hay cý, trong thể chế Việt Nam chính phủ kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và sản lượng.

·                   Bộ Thương Mại cũng có thể xem xét các yếu tố khác mà BTM cho là

      phù hợp.

Về chỉ tiêu mang màu sắc chính trị này, Hà Nội biện minh rằng “Nền kinh tế Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc thị trường, như có khung pháp lý cơ bản cho doanh nghiệp phá sản, minh bạch trong hệ thống quản trị doanh nghiệp, đảm bảo hệ thống pháp luật nhất quán, đa dạng hóa và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Được nhiều quốc gia ghi nhận và đánh giá cao. 72 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường bao gồm các nền kinh tế lớn như Vương quốc Anh, Canada, Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc.”

Có một câu nói nổi tiếng ở Việt Nam rằng: “Việt Nam có một rừng luật, nhưng khi xét xử và kháng cáo, Việt Nam áp dụng luật rừng”. Hoạt động cho vay do chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không minh bạch và sẽ không cho phép Ngân hàng thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ của mình, gây ra những bất lợi ngoài ý muốn cho khu vực tư nhân cũng như ngành tài chính trong nền kinh tế.

Hơn nữa, Đại hội IX đã thông qua chính sách kinh tế quốc gia: “... phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Các Quy tắc / Luật của ĐCSVN trên hiến pháp của đất nước và không nhất quán với khẩu hiệu “trong cuộc chiến chống tham nhũng, không có khu vực cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Về vấn đề này, thử xem Tập đoàn Xuân Cầu và Tổng Bí Thư Tô Lâm hay Tập đoàn Ciputra và cựu Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, thông cáo báo chí về việc cho thôi chức của các ông Nguyễn Xuan Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ, và bà Trương Thị Mai.  Hầu như tất cả các quan chức chính phủ đều là đảng viên cộng sản, những người lần lượt chỉ định bạn bè hay phe nhóm của họ quản lý và kiểm soát nền kinh tế, dẫn đến tình trạng “thiểu số lãnh đạo và đa số bị khai thác” tạo cơ hội để tối đa hóa tham nhũng quyền và tiền của họ.

Các cơ quan chính phủ Việt Nam là vườn ươm cho các vấn đề như: Chuyến bay giải cứu, Vạn Thịnh Phát, FLC, AIC, Phúc Yên, Khu Thủ Thiêm, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Công ty Cây xanh Công Minh, Tập đoàn Phúc Sơn, v.v..., là những bằng chứng không thể chối cãi rằng quan chức và lãnh đạo doanh nghiệp đã âm mưu và lạm dụng quyền lực của họ để hỗ trợ bất hợp pháp cho các doanh nghiệp vì lợi ích cá nhân /thân hữu rất lớn. Ngoài ra, tham ô ngân sách quốc gia và các dán đầu tư công của các quan chức chính phủ đang lan tràn ở Việt Nam.

Quá trình tư nhân hóa các DNNN vừa và nhỏ để hình thành các DNNN lớn đã làm giàu cho các đảng viên và bạn bè/nhóm lợi ích của họ rất nhiều thông qua tham nhũng.  Báo chí chế giễu gọi chính sách phát triển kinh tế Việt Nam là “chính sách kinh tế dự án: có nghĩa là các nhà lãnh đạo không có tư duy về kế hoạch phát triển kinh tế, chỉ có tư duy vạch ra các dán để thực hiện để tối đa hóa tham nhũng của họ mà không quan tâm đến phúc lợi của dân chúng hay là bộ phận cấu thành của chính sách phát triển kinh tế.

·       Thay lời kết

 

Khi nhận định, đúng hơn là những lời cảnh bào về chính sách quốc gia Việt Nam Busch (2017) cho rằng “Việc áp dụng thận trọng và có trình tự các thể chế thị trường của Việt Nam đã mang lại hơn hai thập kỷ hoạt động kinh tế ấn tượng, trong khi nền kinh tế chính trị cơ bản của đất nước phần lớn vẫn còn nguyên vẹn và tình trạng ‘thiếu trung gian’ của Việt Nam, hoặc sự thiếu hụt của một khu vực tư nhân trong nước hiệu quả và sự thống trị liên tục của khu vực nhà nước. Do đó, mức xuất khẩu và đầu tư ấn tượng vẫn chưa mang lại lợi ích đồng thời cho giá trị gia tăng trong nước hoặc liên kết với các doanh nghiệp trong nước.”

Và từ đó Busch (2017) kết luận: “Vì những thách thức này thể hiện những rủi ro nghiêm trọng đối với tiềm năng tăng trưởng trong tương lai của Việt Nam, điều quan trọng là phải tìm ra các phương pháp mới để củng cố thể chế và giảm vai trò của các chủ thể liên kết với nhà nước.  Hơn nữa, Việt Nam đã nổi lên như một câu chuyện kinh tế hấp dẫn nhất Đông Nam Á. Đó là bởi vì tái cơ cấu kinh tế đã mang lại những lợi ích ấn tượng về sự giàu có, thương mại và đầu tư - tất cả trong khi vẫn giữ nguyên cấu trúc quyền lực cơ bản của đất nước. Tuy nhiên, tái cơ cấu kinh tế thành công cũng góp phần vào thách thức kinh tế chính của Việt Nam hiện nay, cụ thể là làm thế nào để giải quyết ‘trung gian còn thiếu’ - thiếu một khu vực tư nhân trong nước hiệu quả.

Thật vậy, thành công to lớn của Việt Nam trong việc thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chưa mở ra sở hữu nhà nước rộng lớn hoặc tạo ra mối liên kết giữa các ngành công nghiệp tập trung vào xuất khẩu và phần còn lại của nền kinh tế trong nước. Kết quả là, Việt Nam đã phải vật lộn để gặt hái những lợi ích đầy đủ từ hiệu quả thương mại và đầu tư ấn tượng của mình.”

Theo thiển kiến, sau năm 1975, chế độ độc đảng, chế độ cộng sản, khẩu hiệu “đảng chọn, dân bầu” và quá trình phân phối lao động theo nguyên tắc “hồng hơn chuyên” trong nền kinh tế trung ương hoạch định của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đưa nền kinh tế đến khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng đe dọa sự tồn tại của đảng Cộng Sản và thể chế vào các năm đầu của thập niên 1980.  Việt Nam đã đưa ra kế hoạch đổi mới, trong đó trên lý thuyết hoạt động kinh tế theo mô hình trung ương hoạch định được chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, vào năm 1986.  Như Busch (2017) cảnh báo, do cgiữ nguyên cấu trúc quyền lực cơ bản của đảng và đảng viên, Việt Nam theo đuổi chính sách kinh tế mà đến nay đã đẩy nền kinh tế lơ lửng trước ngưỡng “bẫy thu nhập trung bình” mà đảng và nhà nước không thể giải quyết. 

Việt Nam hy vọng: (i) Được Hoa Kỳ công nhận có nền kinh tế thị trường (ii) Quyết định 1334/QĐ-TTg; và, (iii) Chỉ thị 24-CT / TW sẽ giúp VN thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay và để bảo vệ/giữ gìn ĐCSVN. Những điều nói trên cho thấy nền kinh tế Việt Nam vẫn còn quá nhiều vấn đề để có thể đáp ứng các tiêu chí do BTM Mỹ đặt ra. Hà Nội hiểu rất rõ những vấn đề này, nhưng để bảo vệ sự trường tồn và quyền lực của Đảng nên cố gắng che giấu hoặc che đậy chúng, vận động hành lang mạnh mẽ và làm những gì lịch sử cho thấy họ rất khéo léo trong việc làm: cố tình hứa hẹn và cam kết, nhưng, sẽ không hoàn thành nghĩa vụ của họ.

Về phía Mỹ: thế giới hỗn loạn hiện nay; Đặc biệt, vấn đề Ukraine, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và vấn đề Tây Thái Bình Dương đã làm đứt gẫy toàn bộ chuỗi cung ứng quốc tế, gây khó khăn không nhỏ cho nền kinh tế Mỹ dẫn đến áp lực tư duy thực dụng của người dân Mỹ. Trong ngắn hạn, Việt Nam có thể lấp một phần quan trọng của chuỗi cung ứng quốc tế (bằng cách dựa vào đầu vào, có thể là sản phẩm cuối cùng nhập khẩu bất hợp pháp, từ Trung Quốc).

Do đó, Hà Nội thừa hiểu rằng Mỹ có thể phải chấp nhận một số giải pháp thứ cấp trong một số thành phần trong chính sách ngoại giao trực thăng vận (helecopter foreign policy) của mình để giảm bớt các vấn đề kinh tế vĩ mô trong nước và giữ cho Việt Nam không rơi xa hơn vào Trung Quốc. Tuy nhiên, giải pháp thứ cấp nguy hiểm nhất đối với Mỹ là nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, bởi một khi đã được thông qua, rất khó để rút lại khi Hà Nội không thực hiện đúng cam kết của mình.  Rất có thể là nếu tình huống trở nên nghiêm trọng, Mỹ có thể chấp nhận giải pháp thứ cấp này.

Tuy nhiên quy chế tối huệ quốc (Most Favorite Nation, MFN) đối với Trung Quốc, Hiệp định Paris, các cam kết của VN trong CPTPP, PCA là những bằng chứng mà Mỹ đã trải nghiệm đối với các thể chế độc đảng, toàn trị.  Do đó, Hà Nội nên nên suy ngẫm chân lý của câu nói của Tổng Thống thứ 16 của Mỹ, ông Abraham Lincoln, rằng: “Bạn có thể đánh lừa một số người mọi lúc, và tất cả mọi người một số lúc, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người mọi lúc.”,  trong các dán hay kế hoạch trong những tháng năm tới để có thể được BTM Mỹ mang ra khỏi danh sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường.

Tài liệu tham khảo

·       Busch, M.  2017. The missing middle: A political economy of economic restructuring in Vietnam. Lowy Institue, Victoria State Government (December, 2017). Busch_A political economy of economic restrucuring in Vietnam_WEB (1).pdf.

 

·        ĐÀI Á CHÂU TỰ DO-RFA .2024. https://www.Đài Á Châu Tự Do-ĐÀI Á CHÂU TỰ DO-RFA.org/vietnamese/in_depth/does-vietnam-have-a-market-economy-or-not-what-does-the-us-say-how-does-vietnam-defend-07102024122141.html.

·       ĐÀI Á CHÂU TỰ DO-RFA .2024. Cuộc đàm thoại với GS. Nguyễn Văn Chữ về Việt Nam và Kinh Tế Phi Thị Trường: https://youtu.be/XMwYPSiwNZA.

·       IMF. 2023. Vietnam: 2023 Article IV Consultation-Press Release; Staff Report; and    Statement by the Executive Director for Vietnam. IMF Country Rport No. 23/338 (September 27, 2023). https://www.imf.org. Truy cập vào ngày 15, tháng 1, năm 2024.

·       IMF. Direction of Trade Statistics (DOTS). https://data.imf.org. Truy cập vào ngày 15, tháng 1, năm 2024.

·       Keynes, J. M. 1936. The General Theory of Employment, Interest and Money. McMilllan, London.

·       Nguyen, C. V. 2015-a. Vietnam needs to bring the dong down. East Asia Forum Economics, Politics and Public Policy in East Asia and the Pacific, 4th July, 2015. http://www.eastasiaforum.org.

·       Nguyen, C.V.  2015-b. The Vietnamese lending rate, policy-related rate, and monetary policy post-1997 Asian financial crisis.  Cogent Economics & Finance (2015), 3: 1007808. http://dx.doi.org/10.1080/23322039.2015.1007808.

·       Nguyen, C.V., Hiệp, N.P., Lộc, N.B. 2021. Một Góc Nhìn Về Chiến Tranh “Mậu Dịch” Mỹ-Trung Và Hệ Quả Đến Việt Nam. Nhóm Việt 2000, Houston, U.S.

·        Nguyen, C.V.  2024. Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua Lăng Kính Kế Sách Phát Triển Kinh Tế, Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ I và II). Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Việt - Mỹ, Đại học Oregon.

Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua Lăng Kính Kế Sách Phát Triển Kinh Tế, Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ 1)  – TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ (uoregon.edu).

Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua Lăng Kính Kế Sách Phát Triển Kinh Tế, Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ 2) – TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ (uoregon.edu).

 

·       Phương Dung 2024. 134 doanh nghiệp Nhà nước lỗ hơn 115.000 tỷ đồng. VNEXPRESSS, thứ sáu, 11/10/2024. https://vnexpress.net/

·       Thu Lan, P. T. 2017. Tại sao đình công ở Việt Nam luôn là tự phát? Column.global-labor-university.org, Number 290, November 2017. University of the Witwatersrand, Johannesburg, South Africa.

·       Tri Duc  2024. Vietnam has ‘all the basics’ of a market economy: US-ASEAN business council. The Investor:VAFIE Magazine (July 24, 2024). https://theinvestor.vn/vietnam-has-all-the-basics-of-a-market-economy-us-asean-business-council-d11386.html