Một Vài Suy Tư Về Khái Niệm Kinh Tế Thị Trường
Của Bộ Thương Mại Mỹ Và Chính Quyền Việt Nam
Nguyễn Văn Chữ
Tóm lược:
Mục tiêu của bài viết này là: (i) lý giải Bàn tay Vô hình của Adam Smith; (ii) tóm lược những biến chuyển kinh tế, chính
trị, xã hội, và công nghệ đã trói Bàn tay Vô hình, vô hiệu hóa sự hữu hiệu của chủ thuyết kinh tế “thị trường” cổ
điển theo giả thuyết Bàn tay Vô hình và “cung tạo ra cầu” của
Đinh luật Say; (iii) tóm lược những biến chuyển đưa đến chủ thuyết kinh tế thị trường mới, thuyết giảng
và chứng minh rằng
trong điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội, và công nghệ mới, chính phủ phải dùng công cụ của chính sách tài chính công và
tiền tệ để điều tiết hoạt động
kinh tế quốc gia; (iv) do nhu cầu can thiệp của chính quyền, các quốc gia phát triển ngày nay đều có nền kinh tế pha trộn (mixed economy); (v) Việt Nam
với thể chế độc đảng, toàn trị, và nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa vào bản chất pha trộn của các nền kinh tế phát triển để đưa ra những biện minh yêu cầu Mỹ công nhận có nền kinh tế thị trường; (vi) dựa trên dữ liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International
Monetary Fund – IMF) và chính sách phát triển của thể chế Việt Nam đưa ra giả thuyết tại sao
Hà Nội gấp rút
yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường (vii) liệt kê
6 tiêu chí mà Bộ Thương Mại
(BTM) Mỹ căn cứ để xem xét các quốc gia đối tác có “nền kinh tế thị trường” hay không; (viii) tóm lược luận cứ Hà Nội và thư gửi BTM Mỹ của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (the US-ASEAN Business Council)
về nền kinh tế Việt Nam, và đưa những điều bất cập trên bình diện lý thuyết và
thực tiễn đã và đang xẩy ra tại Việt Nam như là những phản biện; và sau cùng (ix) đưa
ra một vài suy tư để thay lời kết.
· Dẫn nhập
Sau năm 1975, thể chế độc đảng, chế độ
công sản, luận cứ đảng cử,
dân bầu, và qui trình phối trí lao động theo nguyên tắc hồng
hơn chuyên trong nền kinh tế trung ương hoạch định của Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đã đưa toàn thể đất nước này vào một
thời gian cực kỳ khó khăn, khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng này đe dọa sự tồn tại của đảng Cộng Sản và thể chế vào các năm đầu của
thập niên 1980.
Trong tình huống đó, Việt Nam đã đưa ra kế hoạch
đổi mới, trong đó trên lý thuyết hoạt động kinh tế theo mô hình trung ương hoạch định được chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, vào năm 1986. Mô hình mới đặt khu vực quốc doanh và
ngoại thương là
cốt lõi hay vai
trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế quốc gia.
Do được điều kiện hóa trong một văn hóa, môi trường kinh tế, và kinh doanh của phần định hướng của xã hội chủ nghĩa - bao gồm cả chính
sách công hữu và
đặt lãnh vực quốc doanh vào vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế của chính sách kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa mà
chính phủ VN theo đuổi trong nhiều
thập niên, nên trong quá trình hội nhập vào cộng đồng thế
giới hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà
cũng không cần kiến tạo một xã
hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch.
Trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, hai học giả về phát triển kinh tế thế giới, đầy
uy tín và am tường về VN,
Klingler-Vidra và Wade (2020), chỉ rằng chính sách công nghệ hóa tuyên bố một đàng mà thực thi một nẻo tại quốc gia này sẽ không có triển vọng cho sự tăng trưởng bền vững. Đồng thời, nông
sản có tỷ trọng quan trọng trong tài khoản xuất khẩu của VN, nhất là gạo và thuỷ sản nuôi; nhưng vấn đề nhiễm mặn, và do kinh đào Phù Nam
Techo, sự hâm nóng môi trường, sự nhiễm mặn sẽ nghiêm trọng hơn, đang và sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng trong
quá trình canh tác và nuôi thủy sản của VN.
Mặc dù, Tổng cục Thống kê
thu thập dữ liệu thống kê và
toàn bộ hệ thống truyền thông
của nhà nước theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo của Đảng báo cáo phát triển vang dội; nhưng dữ liệu thống kê
do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
(International Monetary Fund - IMF) thu thập và lưu trữ cho thấy trong năm 2022, giá trị xuất siêu của Việt Nam đến Mỹ, Trung Cộng, Liên Âu, và
toàn thế giới, theo thứ tự, là
94.672,73; -59.235,65; 27.476,65; và 13.392,93 triệu Mỹ kim (IMF, 2023). Hai điểm quan trọng sau đây về ngoại thương của Việt Nam cần nêu
ra để lượng giá tình trạng kinh tế vĩ mô và sự phát triển của quốc gia này:
Thứ nhất, tổng sản lượng quốc nội (Gross Domestic Product - GDP) của VN trong
năm 2022 là 406,00 tỷ Mỹ kim
và tổng số xuất cảng và
nhập cảng của Việt Nam chiết tính
bằng phần trăm của GDP, là chỉ số đo độ mở của nền kinh tế, trong cùng
năm là 166,60 % (IMF, 2024). Chỉ số
này cho thấy nền kinh tế VN
quấn quyện sâu đậm nên
lệ thuộc sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc có một biên giới chung khá
dài và nhiều cửa khẩu cùng với tình trạng tham nhũng khủng khiếp tại Việt Nam nên
nếu bao gồm trị giá của hàng nhập lậu từ Trung Quốc thì sự khiếm hụt của ngoại thương giữa Việt Nam và
Trung Quốc sẽ rất nghiêm trọng hơn là -59.235,65 triệu Mỹ kim như báo cáo; đồng thời, báo cáo kiều hối gửi vào Việt Nam trong năm là trên dưới 16 tỷ Mỹ kim.
Truyền thông Việt Nam dưới sự
chỉ đạo của Ban Tuyên giáo của
Đảng Cộng Sản (ĐCS) rao giảng rằng nhờ tài năng lãnh đạo của Đảng nên, dù với sự đình trệ của kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn
tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, các dữ liệu thống kê và hai điểm tiềm ẩn trong các dữ liệu vừa nêu, cho thấy hoạt động kinh tế vĩ mô của Việt Nam không như rao giảng mà đang lảng vảng trước bẫy thu nhập trung bình.
Hơn nữa, vấn nạn nghiêm trọng này là do thể chế cũng như chính sách mà đảng và nhà nước Việt Nam đã theo đuổi nhiều năm qua và hiện nay họ không có khả năng tự giải thoát. Do đó, đảng và nhà nước ban hành Nghị Quyết 1334 để thu hút nguồn tài chính và chất xám của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tập trung toàn bộ các phương cách để yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam
có nền
kinh tế thị trường nhằm
giải quyết vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, như bao nhiêu lần trước, yêu cầu này đã bị BTM Mỹ khước từ vào ngày 2 tháng 8, năm 2024, dựa trên phân tích chuyên sâu theo các tiêu
chí luật pháp quy định trong mục 771 (18) của Đạo luật Thuế
quan năm 1930.
Từ góc nhìn lịch sử của ngôn
ngữ thì cụm từ kinh tế thị trường như một số
cụm từ trừu tượng khác, như yêu chẳng hạn, có cùng bản chất là hầu hết chúng ta dùng hàng ngày và cho rằng mình hoàn toàn hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, nếu
ai đó hỏi kinh tế thị trường
là gì thì hầu hết chúng
ta sẽ phải ngập ngừng để suy tư và
đồng hóa cụm từ nầy với Adam Smith của thế kỷ thứ 18. Hơn nữa, ngược dòng thời gian cho thấy rằng bản chất của các nền kinh tế của các quốc gia phát triển ngày này không còn bản chất của kinh tế thị trường của ba thế kỷ trước.
Đồng thời, xuyên không gian cho thấy vì khác mục tiêu
của chính sách kinh tế đưa đến dị biệt bản chất của các
nền kinh tế tại các quốc gia tiến bộ ngày nay. Lẽ đương nhiên, khi yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, Hà Nội đã phải đưa ra lập
luận để biện minh rằng nền kinh tế Việt Nam dưới
sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước đã thỏa mãn các
tiêu chí mà BTM Mỹ dựa vào để xem xét một quốc gia có kinh tế thị trường hay không.
Do những lý do trên, bài viết này cố gắng lý giải/trình bày các vấn đề sau đây:
·
Ý
nghĩa của cụm từ kinh
tế thị trường và cách vận hành của nền
kinh tế thị trường gần ba thế kỷ trước;
·
Các
biến đổi đưa đến bản
chất của nền kinh tế thị trường ngày nay;
·
Các
khác biệt bản chất của
các nền kinh tế của các
quốc gia phát triển;
·
Do
sự biến đổi qua thời
gian và khác biệt xuyên
không gian trên, bài viết này
sẽ báo cáo 6 tiêu chí
mà BTM Mỹ dựa vào để xem xét một quốc gia có kinh tế thị trường
hay không (ý nghĩa của cụm từ Kinh tế Thị trường ngày nay);
·
Sự thích nghi của
lập luận Hà
Nội và Hội đồng Kinh
doanh Hoa Kỳ-ASEAN đưa ra để biện hộ cho nền kinh tế thị trường
cho Việt Nam; và,
·
Một vài suy tư thay lời kết.
·
Ý
nghĩa của cụm từ “kinh
tế thị trường”
Tổng quan thì lý
thuyết về kinh tế thị trường bắt nguồn
từ giả thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith với một giả định ngầm về việc điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh (an implicit assumption on the complete market
price adjustments, both upward and downward) và Định luật Say sau đây:
·
Giả thuyết Bàn tay Vô hình của Adam Smith
Về mặc kinh tế vi mô
(Microeconomics), Adam Smith (The Wealth of Nations,1776) giả thuyết rằng nền kinh tế hiệu quả nhất là
một hệ thống trong đó các cá
nhân và doanh nghiệp có thể tự do theo đuổi lợi ích cá nhân
hoặc kinh doanh của họ mà
không cần bất kỳ hướng dẫn hoặc quy
định nào của chính phủ (laissez-faire). Tương tác giữa người tiêu dùng hay đơn vị kinh tế tiêu thụ và doanh nghiệp hay các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ quyết
định những gì sẽ được
sản xuất để cung cấp ra thị trường và ở mức giá nào; hay trả lời
ba câu hỏi cơ bản của lý
thuyết kinh tế vi mô hiện đại:
·
Sản xuẩt những gì?
·
Sản xuất bằng cách nào? Và,
·
Sản xuất cho ai?
Đây là giả thuyết cơ bản của Adam Smith về nền kinh
tế thị trường và được mệnh
danh là “Bàn tay Vô hình” trong lãnh vực kinh tế vi mô trong thế kỷ thứ 18.
·
Định luật Say
Về mặt kinh tế vĩ mô
(Macroeconomics), định luật Say
(Jean-Baptiste Say; một lý thuyết gia về kinh tế chính trị, 1803) giả thuyết rằng: cung tạo ra cầu của chính
nó. Cung tạo ra cầu của chính nó được hiểu là khi một nền kinh tế với một số lượng nào
đó của các yếu tố sản xuất là tư bản, bao gồm mức độ kỹ thuật tích chứa, và lực lượng lao động, bao gồm kỹ năng,
sẽ sản xuất một số lượng sản phẩm và dịch vụ trị giá bằng một số
đo nào đó mà trong thuật ngữ
thời thượng ngày nay là GDP. Và,
giá trị của các sản phẩm và dịch vụ này hay GDP cũng là mãi lực của nền kinh tế để mua các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất.
·
Giả thuyết tiềm ẩn về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith
Một giả định dù tiềm ẩn nhưng vô cùng quan trọng trong giả thuyết Bàn tay Vô
hình của Adam Smith là giả thuyết về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh, mang ý nghĩa là giá cả thị trường của bất cứ sản phẩm hay dịch
vụ nào sẽ tăng, không
bị bất cứ cản trở nào, khi có sự thiếu hụt; hay số lượng cầu lớn hơn số lượng cung, trong thị trường đó
(bao gồm cả thị trường nhân dụng, vì tiền lương là giá của dịch vụ lao động). Ngược lại, giá cả thị trường của bất cứ sản phẩm hay dịch
vụ nào sẽ giảm, không
bị bất cứ cản trở nào, khi có
thặng dư; hay số lượng cầu nhỏ hơn số
lượng cung, trong thị trường đó (bao gồm cả thị trường lao động).
· Sự cân bằng kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô
Bàn tay Vô hình với giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith và Định luật Say đảm bảo
cầu luôn bằng cung ở tất cả các
thị trường riêng lẻ, bao gồm cả thị trường lao động hay
thị trường nhân dụng, của nền kinh tế.
Một cách chi tiết hơn, Định
luật Say lý luận rằng tổng
cung trong nền kinh tế luôn bằng tổng cầu. Trong khi đó, Bàn
tay Vô hình của Smith giả
thuyết rằng sự thặng dư hay thiếu hụt, được hiểu là mất cân bằng, trong bất kỳ một thị trường riêng lẻ nào chỉ là trạng thái tạm thời vì giá của sản phẩm hay dịch vụ đó sẽ điều chỉnh nên sẽ đưa đến một trạng thái cân bằng mới. Và, đây là trạng thái quân bình vĩ mô
trong nền kinh tế.
·
Các biến đổi đưa đến bản chất của nền kinh tế “thị trường”
ngày nay
Xuyên thời gian, lịch sử
cho thấy rằng cuộc cách mạng
công nghệ lần thứ nhất
(1760-1830), làm thay đổi điều
kiện kinh tế - xã hội, chính
trị và quy trình sản xuất ở Anh; tiếp theo là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai (1870-1914) phát triển mạnh mẽ công nghệ không
chỉ ở Anh một lần nữa, mà còn
ở Đức, Mỹ và Pháp; tuy nhiên,
với tốc độ chậm hơn ở Ý và Nhật.
Những cuộc cách mạng công
nghệ này đã làm thay đổi cấu trúc và đặc điểm của nền kinh tế của họ một cách sâu
rộng sau đây:
·
Đòi
hỏi các cơ sở lớn hơn trong công cuộc sản xuất;
·
Tăng
năng suất lao động;
·
Điều kiện làm việc cực kỳ tồi tệ và không an toàn cho người lao động;
·
Mức lương của người lao động không được điều chỉnh theo mức tăng của
năng suất nên rất thấp; và
· Người lao động không thể thương lượng riêng lẻ để cải thiện điều kiện làm
việc và mức lương cao hơn ở các nền kinh tế này.
Các điều kiện kinh tế và
xã hội trên đưa đến không những là nền tảng cho Karl Marx đưa ra Tư Bản Luận mà Lenin và
Stalin đã dùng như là nền tảng lý
thuyết để thiết lập nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung trong khối
cộng sản mà còn những thay đổi
sau đây trong thế giới phương
Tây:
·
Sản phẩm được kinh doanh theo hợp đồng quy
định các thông số kỹ
thuật
của sản phẩm và giá của chúng trước khi giao hàng;
·
Thị trường chứng khoán được thành lập để xây dựng cơ sở sản suất; và
·
Công
đoàn được thành
lập để đại diện/bảo vệ người
lao động, dẫn đến hợp
đồng lao động xác định trước mức lương của họ và cải thiện điều kiện
làm việc.
Các thỏa thuận hay hợp đồng
trên đã thiết lập các
rào cản pháp lý và xã hội, tạo ra những trở ngại cho khả năng và
một số giá cả trong nền kinh tế không thể giảm khi thặng dư trong các trị trường riêng lẻ, nhất là trị trường lao động. Nói một cách khác, trong điều kiện kinh tế, chính trị, và xã hội mới, một số giá cả không
thể giảm khi cung lớn hơn cầu; nhất
là trong thị trường nhân
dụng. Điều này vi phạm giả định về điều chỉnh giá
thị trường hoàn
chỉnh của Adam Smith, tức là, cấu trúc giá tổng thể sau đó không thể giảm mà không bị cản trở, có thể hiểu là Bàn tay Vô hình của Smith đã
bị trói bởi
các thay đổi nêu trên.
·
Các
khác biệt bản chất của
các nền kinh tế của các
quốc phát triển
Hai cuộc cách mạng kỹ nghệ tạo ra
nhu cầu tài chính để xây
dựng các cơ sở sản xuất cho công cuộc sản xuất quy mô đưa đến các vấn đề không thể dự đoán
trong thị trường tài chính: khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng đầu tiên của thế kỷ 20.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu khi ông Clarence Charles Hatry sử dụng tín dụng của doanh nghiệp của ông làm tài sản thế chấp để vay nợ ngân hàng để mua chuỗi các công ty sản xuất thép United Steel ở Anh và đã được ngân hàng cam kết cho vay; tuy nhiên, đã rút cam kết vào phút cuối.
Để giải quyết vấn đề khẩn cấp và nghiêm trọng này cho dự án, ông Hatry đã gian lận bằng cách in bản sao của các cổ phiếu đã phát hành của công ty của ông và sử dụng chúng
làm tài sản thế chấp để vay mượn hầu
tiếp tục công trình. Khi bị
phát hiện, thị trường tài
chính đã phản ứng một cách
tiêu cực và vô cùng mạnh mẽ đưa đến các hiện tượng sau đây:
· Giá
trị cổ phiếu của công
ty ông trở thành zero;
và
·
Một cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra khiến thị trường chứng khoán của tất
cả các nước công nghiệp phát triển đi xuống không phanh.
·
Các rào cản pháp lý và xã hội nói trên đã ngăn cản thị trường lao động điều
chỉnh mức lương dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp lần
lượt là hơn 25% và 20% ở Anh và Mỹ;
·
GDP của các quốc gia bị ảnh hưởng đều thấp hơn GDP tiềm năng của
họ khi
lực lượng lao động được tận dụng, và,
·
Tình trạng thất nghiệp tồn tại dai dẳng.
·
Hệ quả của khủng hoảng tài chính đầu của thế kỷ 20
Theo giả định về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh của Adam Smith thì nạn thất nghiệp lần lượt là hơn
25% và 20% ở Anh và Mỹ, và rất cao tại nhiều quốc gia phát triển khác trong thị trường nhân dụng (mất quân bình vì số lượng người muốn làm việc cao hơn số người mà các cơ sở sản suất muốn xử dụng trong quá
trình sản xuất, thị trường đơn lẻ
trong mỗi nền kinh tế), chỉ là trạng thái tạm thời vì giá trong thị trường này (mức lương) sẽ giảm và sẽ tái lập một trạng thái cân bằng mới. Tuy nhiên, các hợp đồng lao động xác định trước mức lương đã vô hiệu hóa giả thuyết về điều chỉnh giá thị trường hoàn chỉnh nên thị trường nhân dụng tại các
quốc gia này không thể thiết lập mức quân bình mới.
Kết quả tất yếu của vấn nạn không thể thiết lập mức quân bình mới trong thị trường nhân dụng đưa đến một phần của cơ sở sản xuất bị bỏ không là GDP của nền kinh tế trong điều kiện này
sẽ thấp hơn GDP tiềm năng khi lực lượng
lao động và cơ sở sản xuất được
tận dụng trong quá trình sản
xuất trong nền kinh tế.
·
Sự chào đời của các nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong điều kiện kinh tế vừa trình bày trên, định luật Say cũng đảm bảo rằng số cung sẽ
tạo ra số cầu hay sự cân bằng
cung cầu vĩ mô; tuy nhiên, sự
quân bình này chỉ ở mức độ
GDP đươc sản xuất khi lực lượng lao động và cơ sở sản xuất không được tận dụng trong quá trình sản xuất của nền kinh tế. Đây được gọi là sự quân bình vĩ mô với mức
độ nhân công xử dụng trong quá
trình sản xuất thấp hơn lực lượng
lao động (Macroeconomic equilibrium with less than full employment).
Sự quân bình vĩ mô với mức
độ nhân công xử dụng trong quá
trình sản xuất thấp hơn lực lượng
lao động nhưng mức lương nhân công trong thị trường nhân dụng không thể giảm do các khế ước lao
động giữa nghiệp đoàn và lãnh đạo các cơ sở sản xuất nên
không có lực lượng thị trường
(market force) nào phá vở sự
quân bình này. Kết quả tất yếu
trên bình diện lý thuyết cũng như thực trạng của các nền kinh tế tại các quốc gia có công nghệ cao cho thấy là sự quân bình này không là trạng thái tạm thời mà rất dai dẵng từ
năm 1929 đến năm 1933, sau khi Keynes đưa
ra giả thuyết mới lý giải bản
chất và cách vận hành
của hoạt động kinh tế vĩ mô
và phương cách để đưa các nền kinh tế bị mắc kẹt ra khỏi vướng mắc.
Keynes lý giải rằng các nền kinh tế này bị mắc kẹt ở trạng thái quân bình vĩ mô có GDP với mức thất nghiệp cao vì không có lực lượng thị trường hiện hữu nào kéo chúng ra khỏi tình trạng cân bằng này. Từ
lý giải này, Keynes
(Keynes, 1936) triển khai một lý
thuyết kinh tế mới mang tên
ông, Kinh tế Vĩ
mô Keynesian (Keynesian Macroeconomics hay chỉ Keynesian Economics) và gọi tất các lý thuyết về kinh tế được triển khải trước năm 1936 là
trường phái Kinh tế Cỗ điển (Classical Economics).
Kinh tế Vĩ mô Keynesian cùng với các trường phái kinh tế vĩ mô
khác sau đó đều, với các tầm cở khác nhau nào đó, xem sự can thiệp của chính phủ để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô quốc gia bằng chính sách Tài chính Công
(Fiscal Policy) và chính sách Tiền tệ (Monetary Policy) là cần thiết. Do đó, tất cả các quốc gia trên thế giới ngày
nay, ngoại trừ Cuba và Bắc Hàn, đều có nền kinh tế với mức độ can thiệp khác nhau của chính phủ. Vì có sự can thiệp của
chính quyền nên các
các quốc gia này có nền kinh tế pha trộn/hỗn hợp (mixed
economy). Và, quan trọng nhất
là mục tiêu của các sự can thiệp là cải thiện phúc lợi của người dân.
·
Mục tiêu của chính sách và sự khác biệt giũa các nền kinh tế hiện nay
Ngày nay, mọi chính phủ đều triển khai chính sách kinh tế để điều hành (can thiệp)
hoạt động kinh tế quốc gia. Chính sách kinh tế quốc gia đặt ra các mục tiêu kinh tế của chính phủ. Bởi vì mức độ can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh
tế quốc gia khác nhau, nên các chính sách kinh tế giữa các quốc gia khác nhau sẽ phải dị biệt.
Mặc dù tầm quan trọng của
các mục tiêu cấu thành của chính sách kinh tế có thể khác nhau giữa các
quốc gia trên thế giới, các chính sách kinh tế tại tất cả các quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp theo đuổi bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô chính sau đây:
·
Hiệu quả (Efficiency);
·
Công
bằng (Equity);
·
Tăng
trưởng (growth); và
·
Tính
ổn định (Stability).
Về vấn đề phân chia sự khác
biệt giữa các nền kinh tế hiện nay, khi chia sẻ với Đài Á
Châu Tự do (RFA) người viết (RFA, 2024) lập luận rằng
tuy khó khăn, phức tạp và
gây tranh cãi, cũng như ranh giới của
các phân chia có thể không
được xác định rõ ràng; tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, các chính sách kinh tế hiện tại, ngoài Cuba và Bắc Hàn, có thể được phân loại như sau:
(i)
Các chính sách kinh tế của các quốc gia
độc đảng, tập trung vào việc bảo vệ
Đảng, quyền lực của các đảng viên và các quan chức chính phủ, có
thể được phân loại là chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa.
(ii)
Chính sách kinh tế ở các nước dân
chủ với vai trò của chính phủ ( mức độ
can thiệp của chính phủ) vào nền kinh tế tương đối thấp so với vai trò của thị trường (nguyên tắc thị trường), là những nền kinh tế tập trung tương đối nhiều
hơn vào hiệu quả, tăng
trưởng và ổn định, như
nền kinh tế Mỹ, có thể
được xếp vào chính sách kinh tế thị trường.
(iii)
Chính sách kinh tế ở các nước dân
chủ có vai trò của chính phủ trong nền
kinh tế tương đối cao so với vai trò của thị trường, đó là những nền kinh tế quan tâm nhiều hơn đến sự công bằng, hiệu quả và ổn định, giống như nền kinh tế của các
nước Bắc Âu, có thể được xếp vào chính sách kinh tế thị trường xã hội.
· Vấn đề của cụm từ Kinh tế Thị trường ngày
nay
Tất cả các nền kinh tế trên thế giới ngày nay đều có sự can thiệp của chính quyền và Mỹ cũng như khối Liên
Âu (European Union - EU) là hai khu kinh tế quan trọng trên thế giới
với chính quyền dân chủ. Tuy nhiên, chỉ có chính quyền Mỹ đòi hỏi các đối tác
kinh tế phải, theo tiêu chí của họ, có nền kinh tế thị trường trong bối cảnh các
cuộc điều tra chống bán phá
giá. Trong khi đó, cụm từ kinh tế thị
trường đã bị dùng một cách sai lệch mỗi ngày, ngay cả trên truyền thông, vì chủ thuyết
kinh tế thị trường laissez-faire, triển khai dựa trên giả thuyết của Adam Smith và Say Law không
còn có thể áp dụng để điều hành
hoạt động kinh tế vĩ mô ngày
nay.
Bên kia bờ Đại Tây
Dương, vào tháng 12 năm 2017, EU đã xóa bỏ sự phân biệt giữa nền kinh
tế thị trường và nền kinh
tế phi thị trường trong bối cảnh các cuộc điều tra chống bán phá giá nên không còn duy trì danh sách các nền kinh tế phi thị trường nữa. Thay vào
đó, luật phòng vệ thương mại của EU phân biệt giữa các thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization - WTO) và các quốc gia không phải là
thành viên WTO. Đối với các
thành viên WTO, trên cơ sở từng trường
hợp cụ thể, EU sẽ điều tra liệu sự can thiệp của nhà nước có làm biến dạng đáng kể nền kinh
tế của quốc gia xuất khẩu hay không. Các cuộc điều tra đó được tiến hành theo Quy định của EU về bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá từ các quốc gia không phải là
thành viên của Liên Minh Châu
Âu, tức là trong một khuôn khổ pháp lý riêng biệt.
Càng thú vị hơn nữa là ngay cả các
quốc gia bị Mỹ cho vào danh
sách các nền kinh tế phi thị trường
như Việt Nam với sự trợ giúp của các hiệp hội/hội đồng
thương mại/cố vấn quốc tế hay khu vực, chẳng hạn như Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (Hội đồng) do ông Ted Osius, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam (2014-2017) và
hiện giữ chức vụ Chủ tịch và
Giám đốc Điều hành của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (Ted Osius, president & CEO
of the US-ASEAN Business Council), Tri Duc (2024), cũng dựa vào sự kiện là cả nền kinh tế của Mỹ và Liên Âu đều có sự can thiệp của chính
quyền cũng như sự khác biệt về
phương cách mà Mỹ và
EU bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bán phá giá mà không phân
biệt hay cố phớt lờ sự khác
biệt sâu rộng về chủ đích và phương cách can thiệp trong các nền kinh tế dưới thể chế dân chủ và thể chế độc đảng, toàn trị, để đưa ra những biện minh một cách đẩy chốt vuông qua lỗ tròn để yêu cầu Mỹ công nhận là
các quốc gia này có nền kinh tế thị trường.
·
Mỹ nói gì, Hà Nội nói gì về, Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, do cựu Đại Sứ Mỹ tại Việt
Nam, ông Ted
Osius, lãnh đạo biện minh sao cho nền kinh tế Việt Nam
Trong chính trường, lãnh
đạo Mỹ chịu ảnh hưởng của ý
kiến của người dân mạnh hơn là lãnh đạo của các quốc gia thành viên của Liên Âu. Do đó, trước khi tìm hiểu Mỹ nói gì và Hà Nội cùng Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN nói gì về nền kinh tế Việt Nam, chúng ta dành đôi
phút để tìm hiểu văn hóa hay cách hành xử của ngườ Mỹ. Theo Nguyen, Hiệp, và Lộc (2021), văn hóa của Mỹ có những điểm trội yếu sau đây.
Người Mỹ:
·
Rất tự hào về tự do và thịnh vượng của đất nước họ;
·
Thực sự muốn tất cả các dân tộc khác trên thế giới được tự do và thịnh vượng
như họ; nhưng,
·
Cho
rằng nếu các
dân tộc khác muốn được tự do và thịnh vượng như họ, các
dân tộc đó phải hành xử như người Mỹ.
Một điểm trội quan trọng nữa về văn hóa của Mỹ là mặc dù chính sách ngoại
giao dường như thực thi bằng chiến thuật và chiến lược trực thăng vận (helecopter foreign
policy) với bản chất trao đổi để thỏa mãn những mục tiêu của từng giai đoạn, chấp nhận giải pháp thứ cấp (second best); tuy nhiên, sau
thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ đã
thành lập và liên tục duy trì nền hoà bình Mỹ (Pax Americana), với mục tiêu của chính sách đối ngoại là tối đa hóa phúc lợi của công dân Hoa Kỳ, đảm bảo hòa bình thế giới, thịnh vượng kinh tế, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền mọi nơi. Hơn nữa, Các nước dân chủ tự do can thiệp vào thị
trường là để cải thiện phúc
lợi của người dân, không tập trung quyền lực vào tay một đảng chính trị, mà nhằm bảo đảm sự hiệu
quả, công bằng/bình đẳng, tăng trưởng,
ổn định kinh tế và xã hội.
Trong khi đó, nguyên Chủ Tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nguyễn Văn Thưởng (https://youtube.com/shorts/vpNRHI4RTI4?si=oOqRU7IqFzvtcgpB)
khi còn tại chức có lẽ quá tự hào/tự luyến Xã hội Chủ nghĩa
nên đã không quan tâm đến lời
cảnh báo “biết người, biết
ta; thì trăm trận, trăm thắng”
của Tôn Tử và Mỹ không phải là Việt Nam nên đã dõng dạc phát
biểu:
“Đề nghị Hoa Kỳ
quan tâm, công nhận
quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Tôi cho rằng cái việc công nhận quy chế kinh tế thị trường phải bằng quyết sách
chính trị, chứ không
phải là bằng lộ trình của các bước đi theo những cái quy định luật pháp một cách cứng nhắc, mà phải bằng quyết tâm chính trị bởi vì chúng ta là đối tác chiến lược toàn diện.”
7.1. Mỹ nói gì về kinh tế thị trường
Có lẽ vì các yếu tố trên mà chính phủ Mỹ, qua BTM, đã dựa theo các tiêu chí luật định được quy định trong mục 771 (18) của Đạo
luật Thuế quan năm 1930 để đưa ra 6 tiêu chí sau đây để xem xét các quốc gia đối tác có “nền kinh tế thị trường” hay không:
·
Tiền tệ của quốc gia đó có thể chuyển đổi;
·
Mức lương của nhân công là kết quả của thương lượng tự do giữa lao động
và
lãnh đạo doanh nghiệp;
·
Liên
doanh hoặc đầu tư nước
ngoài được phép;
·
Chính
phủ sở hữu hoặc kiểm soát
các phương tiện sản xuất;
·
Chính
phủ kiểm soát
việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và sản lượng; và,
·
Bộ Thương Mại cũng có thể xem xét các yếu tố khác mà BTM cho là phù hợp.
Phân tích 6 tiêu chí trên cho thấy ngoại trừ tiêu chí cuối cùng còn không rõ ràng và ẩn hiện màu sắc chính trị, liệu Việt Nam có đáp ứng được đầy đủ năm tiêu
chí đầu tiên
hay không?
7.2. Hà Nội nói gì về và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN biện minh sao cho
nền kinh tế Việt Nam
Đây không phải lần đầu tiên Hà Nội yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam
có nền kinh tế thị trường;
tuy nhiên, điều kiện kinh tế
Việt Nam, từ sau khi đổi mới cho đến gần
đây, chưa rơi vào trình trạng
khó khăn mà Đảng và
các quan chức Việt Nam gần như bất lực
như ngày nay. Do đó, trong chuyến thăm của Tổng
thống Mỹ Joe Biden đến Việt Nam vào tháng 9/2023 và nâng cấp quan hệ hai nước lên “đối tác chiến lược toàn diện”, Việt Nam đã yêu cầu Hoa Kỳ công nhận mình có kinh tế thị trường.
Trong tuyên
bố chung của hai nước,
Tổng thống Biden khẳng định sẽ xem xét yêu cầu này.
Tiếp theo đó, nhiều lãnh đạo cấp cao Việt Nam
đã bày tỏ nguyện
vọng này của Việt
Nam với người đồng cấp trong chính phủ Mỹ. Đồng thời, Hà Nội chi trả rất nhiều trong công cuộc vận động này như thuê công ty công ty vận động hành lang (Lobbying company). Điều này cho thấy tầm quan trọng
của sự công nhận của Mỹ
đối với Đảng và quan chức Việt
Nam trong những tháng năm
tới.
7.2.1.
Lý do Đảng và
quan chức Việt Nam tận dụng mọi
phương tiện và cơ hội
để yêu cầu Mỹ công nhận quốc gia này có nền kinh tế thị trường
Trong bài phân tích về lý do tại sao Đảng và quan chức
Việt Nam huy động gần như toàn bộ các thành phần của nhà
nước để thực thi Nghị quyết 1334, người
viết (2024) trích
dẫn dữ liệu thống kê từ do International Monetary Fund (IMF) để
chỉ rằng chỉ ra rằng:
·
Tổng số trị giá xuất và nhập cảng chia cho GDP của nền kinh tế Việt Nam luân chuyển từ 152,90 đến 178,10 phần trăm của GDP
trong những năm gần đây: rất cao, mang ý nghĩa là nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc cực kỳ cao và quấn quyện vào trình trạng kinh tế thế giới.
·
Trong
năm 2022, xuẩt siêu
từ Việt Nam sang Trung Quốc,
Mỹ và toàn khối Liên
Âu theo thứ tự là:
-59.235,65, 94.672,73, và 27.476,65; đây là chưa khấu trừ số hàng mà Việt Nam nhập
lậu lạu vào từ Trung
Quốc và kiều hối.
·
Người viết (2024) cúng trích dẫn dữ liệu thống kê 2023 từ IMF (2024) cho thấy toàn bộ cán cân mậu dịch của Việt Nam với toàn thế giới chỉ thặng dư 12 tỷ Mỹ kim, mà
trong đó 16 tỷ Mỹ kim là
kiều hối và chưa khấu trừ giá trị nhập cảng lậu từ Trung Cộng để kết luận rằng đằng
sau bức tranh gần như tuyệt tác do báo chí tô vẽ, hoạt động kinh tế vĩ mô của Việt Nam thật sự khá tồi tệ.
Ngoài ra người viết (2024)
lập luận rằng “Do được điều
kiện hóa trong một văn hóa,
môi trường kinh tế và kinh
doanh của phần định hướng của xã
hội chủ nghĩa - bao gồm cả chính
sách công hữu và
đặt lãnh vực quốc doanh vào vai trò mũi nhọn trong kế sách phát triển kinh tế của chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chính phủ VN đã theo đuổi trong
nhiều thập niên, nên trong quá trình hội nhập hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà
cũng không cần kiến tạo một xã
hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch. Do đó, để giải quyết vấn đề mỗi lúc một khó khăn hơn này, Hà Nội đã nhiều lần xin các đối tác
ngoại thương công nhận nền kinh tế VN là nền kinh tế thị trường; nhưng cho đến nay,
mọi yêu cầu đều bị khước từ.”
Từ một góc độ khác của vấn đề trên, Busch
(2017) đã cảnh báo rằng: “Việc áp dụng thận trọng và có trình tự các thể chế thị trường của Việt Nam đã mang lại hơn hai thập niên hoạt động kinh tế ấn tượng, trong khi nền
kinh tế chính trị cơ bản của
đất nước phần lớn vẫn còn nguyên vẹn” và “ ....Tuy nhiên, tái cơ cấu kinh tế thành công cũng góp phần vào thách thức kinh tế
chính của Việt Nam hiện nay,
cụ thể là làm thế nào
để giải quyết ‘trung gian còn
thiếu’ - thiếu một khu vực tư nhân trong nước hiệu quả.”
7.2.2. Tổng quan khác biệt giữa sự can thiệp của quan chức Việt Nam và
Mỹ
Trước khi đi sâu vào vấn đề Hà Nội và thư gữi BTM Mỹ của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN nói gì về nền kinh tế Việt Nam, xin dành đôi phút để so sánh mục đích của sự can thiệp
vào thị trường của quan chức
Việt Nam và quan chức Mỹ. Theo Tiến sỹ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ
(Radio Free Asia - RFA, 2024), “Hoa Kỳ và các nước tư bản phát
triển có chính sách nâng đỡ cả một ngành kinh tế, ở tầm vĩ mô, là hỗ trợ cho cả một ngành, một thị trường, hoặc để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, chứ không nhắm đến một doanh
nghiệp cụ thể. Do đó, họ chỉ làm chính sách nâng đỡ chứ không can thiệp. Tiến sỹ
Vũ (RFA, 2024) cũng chỉ ra rằng tác vụ của chính phủ Mỹ vào thị trường còn có mục đích
bảo vệ an ninh quốc gia, như cấm bán chip tiên tiến cho Trung Quốc.
Trong trường hợp vừa
nêu, Việt Nam có thể biện luận rằng
Hoa Kỳ làm như vậy, ngay
cả trong vấn đề hỗ trợ nghiên
cứu thì cũng là can
thiệp vào thị trường.
Tuy nhiên, Tiến sỹ Vũ
(RFA, 2024) phản biện rằng ở đây vẫn có
sự khác biệt rất lớn
giữa hai quốc gia. Tác vụ của Mỹ là sự can thiệp ở tầm
vĩ mô, khác với cách can thiệp của Việt
Nam là can thiệp ở tầm
vi mô. Chính phủ Việt
Nam có thể can thiệp
bằng cách cung cấp nguồn
lực về tài chính, đất đai
cho từng doanh nghiệp nhà
nước cụ thể, để những doanh nghiệp này thống lĩnh thị trường,
đè bẹp các doanh nghiệp tư nhân khác trong ngành. Nó tạo ra những
lợi ích riêng cho một nhóm nào đó hoặc theo
đuổi một mục đích nào
đó.”
7.2.3. Việt Nam biện minh và Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN yểm trợ
yêu cầu Mỹ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường
Trong tài liệu yêu cầu BTM Mỹ duyệt xét
để mang Việt Nam ra khỏi danh sách
các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, Hà nội đã cố chứng minh rằng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và quan chức của Việt Nam theo đuổi và cải thiện nhiền măm qua thỏa mãn 6
tiêu chí mà BTM Mỹ căn cứ khi đánh
giá yêu cầu của họ. Sau đây
là điểm trội của các lập luận của Hà Nội và trong thư của Hội
đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gửi BTM Mỹ yểm trợ yêu cầu của Việt Nam để chứng minh mỗi tiêu
chí nêu trên của BTM Mỹ:
7.2.3.1. Tiền tệ của quốc gia đó có thể chuyển đổi
Đối với tiêu chí này, Hà Nội lý giải rằng “đồng tiền của Việt
Nam có thể chuyển đổi sang tiền
tệ của các nước khác một cách minh bạch dựa trên các nguyên tắc thị trường, công bằng và không phân biệt đối xử. Hà Nội còn tuyên bố rằng Bộ Tài chính (BTC) Mỹ trước đó đã xác nhận Việt Nam không
thao túng tiền tệ”.
Đồng thời,
thư của Hội đồng gữi BTM Mỹ yểm
trợ yêu cầu của Việt Nam lập
luận rằng: “Quy định về tiền tệ của Việt Nam xác định rằng VNĐ hoàn toàn có thể chuyển đổi cho mục đích tài khoản vãng lai. Vào cuối những năm 2000, một số công ty của chúng tôi đã gặp khó khăn trong việc chuyển tiền ra khỏi Việt Nam không phải vì các quy tắc đã làm, mà vì không có đủ USD trong hệ thống. Nhưng đó không còn là
vấn đề hiện nay nữa. Trong hơn 10
năm qua, không có công ty nào trong số hơn 130 công ty thành viên của chúng tôi làm ăn với
Việt Nam báo cáo bất kỳ vấn đề
nào về khả năng chuyển đổi tiền tệ.”
Trong khi đó, Bộ Tài chính (BTC) Mỹ chỉ định một đối
tác thao túng ngoại hối dựa
trên giới hạn của ba tiêu chí cơ bản sau đây:
·
Thặng dư thương mại song phương ít nhất là 20 tỷ Mỹ kim (US Dollar – USD)
trong giai đoạn 12 tháng.
·
Thặng dư tài khoản vãng lai ít nhất 2% tổng GDP.
·
Can
thiệp một chiều từ phía
ngân hàng trung ương khi mua ròng ngoại tệ tổng cộng ít nhất 2% GDP được thực hiện trong khoảng thời gian 12 tháng liên tục.
Hiện nay, Việt Nam vẫn có thặng dư thương mại hơn 130 tỷ USD với Hoa Kỳ, thặng dư tài khoản vãng lai là 5,8% GDP, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mua ròng số ngoại tệ bằng 1,5% GDP. Do đó, Việt Nam đang vi phạm
hai trong ba tiêu chí cơ
bản trên nên vẫn nằm
trong danh sách cần theo dõi xem có thao túng tiền tệ hay
không. Nếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ gia tăng số lượng mua ngoại tệ ròng
hơn 0,5% GDP, Việt Nam có thể bị đưa vào danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ.
Thật ra, chỉ
cách đây không lâu, vào
Thứ Sáu ngày 16 tháng 4
năm 2021 BTC Mỹ mới đưa Việt Nam ra khỏi danh
sách các quốc gia
thao túng tiền tệ nhưng
vẫn còn trong những quốc
gia sẽ được tăng cường giám sát.
7.2.3.2. Mức lương của nhân
công Việt Nam là kết quả của thương lượng
tự do giữa người lao động và quản lý doanh nghiệp
Về tiêu chí này, Hà Nội
tuyên bố rằng mức lương ở Việt
Nam được xác định qua thương
lượng tự do giữa người lao động và quản lý doanh nghiệp. Mức độ
tham gia đàm phán tiền lương
của chính phủ còn hạn chế.
Trong thư
gữi BTM Mỹ để yểm trợ Hà
Nội trong lãnh vực này, Hội đồng tuyên bố rằng họ “bác bỏ những tranh cãi ngược lại và nhấn mạnh rằng mức lương ở Việt Nam được xác định bằng thương lượng tự do giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Bộ luật
Lao động của Việt Nam có
xu hướng ủng hộ người lao động, đặc biệt là người
lao động lương thấp, Hội đồng lưu ý rằng chính phủ xác
định mức lương tối thiểu dựa trên các khuyến nghị từ Hội đồng
Tiền lương Quốc gia.
Tất cả các công ty thành viên của chúng tôi (các công ty ngoại quốc tại
Việt Nam) đề nghị trả lương
cao hơn mức lương tối thiểu. Các công ty hội viên không có khiếu nại về khả năng tự do đàm phán hợp đồng lao động, bao gồm gói lương
và phúc lợi nhân viên, với lao động tại
Việt Nam”.
Lập luận và tuyên bố của cả
Hà Nội và Hội đồng Kinh
doanh Hoa Kỳ-ASEAN hoàn toàn không đi đôi với những gì mà Thu Lan (2017), Nguyen, Hiệp, và Lộc (2021), và người viết (RFA, 2024) chỉ ra đã
và đang xảy ra tại Việt Nam:
·
Theo luật lao động
Việt Nam, một cuộc đình
công hợp pháp phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất, phải tuân theo trình tự quy
định trong bộ luật lao động, trong đó không được phép đình công về quyền;
và thứ
hai, phải do tổ chức công
đoàn lãnh đạo.
·
Về vấn đề Công Đoàn Độc lập, người viết (RFA, 2024) chỉ rằng Việt Nam đã
cam kết với Hoa Kỳ và
trong các thương ước EVFTA,
PCA (EU-Vietnam
Framework Agreement on Comprehensive Partnership and Cooperation, PCA) và
CPTPP là sẽ phê
chuẩn và
tuân thủ Công
ước 87 của Tổ chức
Lao động Quốc tế (International Labor Organization, ILO) về tự do lập hội và
bảo vệ quyền thành
lập tổ chức công
đoàn độc lập vào
cuối năm 2023. Nhưng
nay đã đến gần cuối năm 2024 nước này vẫn chưa tuân thủ. Cho đến nay, Việt Nam vẫn không
cho phép thành lập tổ chức công đoàn độc lập trong nước.
·
Mới đây, vào ngày 24 tháng 4 năm 2024, Hà Nội bắt ông Nguyễn Văn Bình, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội. Ông Bình được cho là đang vận động phê chuẩn Công ước 87 của ILO, nhằm
bảo đảm cho người lao động quyền thành lập công
đoàn độc lập. Vụ bắt giữ ông Nguyễn Văn Bình đánh dấu lần đầu tiên một nhà cải cách của chính phủ bị giam giữ
trong những năm gần đây.
·
Một nhà hoạt động khác vì quyền của lao động là ông Vũ Minh Tiến, Trưởng phòng Chính sách, Pháp
luật của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, cũng bị
bắt vào tháng 4 năm 2024. Ông cũng được cho là người vận động phê chuẩn Công ước 87 của ILO. người viết (RFA, 2024) cho biết đó
là chưa kể đến nhiều nhà
hoạt động khác
vì quyền lợi của người lao
động bị vu oan, phải trốn khỏi Việt Nam hoặc bị bắt, cầm tù
với mức án
dài hạn.
·
Cho
đến cuối năm 2020 đã
có gần 7.000 cuộc đình
công diễn ra trên cả nước nhưng không một cuộc đình công nào hơp pháp;
càng thú vị hơn là hầu hết các cuộc đình công này xảy ra tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (the foreign invested
enterprise - FIE) từ các
quốc gia trong vùng
Đông Nam Á.
·
Thu
Lan (2017) chỉ ra các
nguyên nhân sau đây để giải
thích tại sao tất cả các
cuộc đình công đều không hợp pháp và Tổng Liên Đoàn Lao Động VN (TLĐLĐVN) hiện nay không đại diện cho nhân công và cũng không thể tổ chức đình công. “Điều 209 bộ luật lao động quy định ‘việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích’”, được hiểu là: chỉ được phép đình công liên quan tới các tranh chấp lao động phát sinh khi thiết lập các điều kiện lao động mới chưa được quy định trong luật
hay trong thỏa ước lao động tập thể hiện hành. Đình công về quyền, tức là các cuộc đình công về các điều kiện lao động đã quy định trong luật, cũng như trong thỏa ước tập
thể, bị xem là bất hợp
pháp.
·
Người viết (RFA, 2024) chỉ ra rằng TLĐLĐVN trực thuộc Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, là
tổ chức ngoại vi của ĐCSVN. Và Chủ tịch TLĐLĐVN Việt
Nam hiện nay là ông Nguyễn Đình Khang - Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam nhiệm kỳ 2015–2020. TLĐLĐVN thay mặt các thành viên tiến hành thương lượng tập
thể theo hình thức xin
cho.
·
Với sứ mệnh của tổ chức chính trị-xã hội, TLĐLĐVN
đóng vai trò “cầu nối” giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm nỗ lực xây
dựng “quan hệ lao động hài hòa”, bảo đảm thực hiện cả mục tiêu về việc làm và sản xuất. Vì vậy, đình công bị xem là không tạo dựng môi trường ổn định để phát triển đất nước. Ngay cả đối với thương lượng
tập thể, công đoàn cũng thực hiện đàm phán, ký kết thỏa ước tập thể để cải thiện quyền lợi cho người lao động theo cách
“làm thay” cho người
lao động và người lao
động không trực tiếp
tham gia vào quá trình này.
Những lập luận của
Hà Nội và Hội đồng Kinh
doanh Hoa Kỳ-ASEAN, do cựu
Đại Sứ Mỹ, ông Ted
Osius, lãnh đạo để biện minh trong tiêu chỉ này khá rỏ nét của lý luận một cách đẩy chốt vuông qua lỗ tròn. Vì cho đến nay,
Việt Nam vẫn chưa có công
đoàn độc lập mà chỉ được
đại diện bởi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nên người lao động không thể thương lượng tự do với quản lý doanh nghiệp.
·
Liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài được phép tại Việt Nam
Về vấn đề Liên
doanh hoặc đầu tư của các
công ty nước ngoài được phép tại Việt Nam, Hà Nội cho rằng trên thực tế Việt Nam đã trở thành một điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Từ năm 2018 đến tháng 6/2023, toàn quốc có 14.553 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 102,24 tỷ USD từ 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Thư của Hội đồng
Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gửi
BTM Mỹ yểm trợ yêu cầu của Việt
Nam lập luận rằng “Năm 2014, Việt Nam đã giảm số lượng các ngành công nghiệp bị hạn chế (đối với người nước
ngoài) từ 386 xuống còn
272. Ngày nay, chỉ có 25 ngành công nghiệp vẫn nằm ngoài giới hạn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Hầu hết các ngành công nghiệp thuộc các quy định nghiêm ngặt hoặc
được chính phủ coi là
rất nhậy cảm về
chính trị, đều thuộc các lĩnh
vực như điều tra
và an ninh, báo chí và chất nổ.
Trên thực tế, với sự tham vấn chặt chẽ với ngành công nghiệp, bao gồm cả Hội đồng
Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, chính phủ đã thực hiện một chương trình cắt giảm những hạn chế đó, chẳng hạn như giảm hoặc loại bỏ các yêu cầu cấp phép và tăng hoặc loại bỏ giới hạn sở hữu nước ngoài (foreign ownership limits - FOL)”.
Thực tại thì ngoài các doanh nghiệp quốc doanh theo luật định tại Việt Nam, một sự thât khó có thể phủ nhận, dù đảng và quan chức cố che dấu, là tất cả quan chức đều có sân sau, tiêu biểu là Tô Lâm với AVG và tập đoàn Xuân Cầu, Nguyễn
Phú Trọng với Ciputra, cùng
vô số các sân sau khác. (Dù
không có cơ bản pháp lý là
các sân sau này là các doanh nghiệp
độc quyền, nhưng thực chất là không một cơ sở tư nhân nào có thể cạnh tranh và liên doanh với công ty ngoại quốc sẽ cản trở cơ hội bòn rút của quan chức chống lưng). Một lãnh vực nữa là nhân danh an ninh
quốc gia, quân đội Việt Nam làm kinh tế. Quân
đội Việt Nam đã nhúng tay vào
nhiều lãnh vực kinh tế;
Ngân hàng Quân đội,
MB, Công ty Tân Cảng Sài
Gòn, và Viettel là một vài lãnh vực đơn cử.
Vì quan chức cấp cao
trong Đảng và nhà nước, tướng
lãnh quân đội là đảng viên nên, một cách gián tiếp nhưng vô cùng hữu hiêu, Đảng và nhà nước Việt Nam
kiểm soát các phương tiện sản
xuất này.
Về hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, Phương Dung (2024) tường
trên VNExpress ngày11 tháng 10, năm 2024
như sau:
“Thông tin nêu tại báo cáo
Chính phủ gửi Quốc hội về tình hình
tài chính, sản xuất kinh doanh năm 2023 của 671 doanh nghiệp nhà nước. Số này gồm 473 doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ và 198 đơn vị có trên 50% vốn Nhà nước.
Theo đó, 134 doanh nghiệp còn lỗ lũy kế, tổng cộng
115.270 tỷ đồng, tương đương 4,6 tỷ USD (tính theo tỷ giá quy đổi ngày 8/10) tới cuối năm ngoái. Mức lỗ lũy kế này gấp 1,7 lần so với ghi nhận cuối năm 2022 (gần 69.900 tỷ đồng).
Ở chiều ngược lại, các doanh
nghiệp
có lãi trên 5.000 tỷ đồng chủ yếu là các tập đoàn,
tổng
công ty. Chẳng hạn, trong lĩnh vực
năng lượng, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) lãi
trước
thuế gần 56.400 tỷ đồng; Tập đoàn
Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lãi sau thuế 6.329 tỷ.”
·
Chính phủ sở hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất
Hà Nội quả quyết trong
văn kiện yêu cầu Mỹ đem Việt
Nam ra khỏi danh sách các quốc
gia có nền kinh tế phi thị trường
rằng chính phủ Việt Nam không
sở hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất ở một mức độ đáng kể.
Thư của
Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN gữi BTM Mỹ cho rằng “Mặc dù Việt Nam không cho phép tư nhân sở hữu đất đai như Hoa Kỳ, nhưng Việt Nam có
một thị trường bất động sản thứ cấp
mạnh mẽ cho các mục đích
công nghiệp và nhà ở, cho phép các bên chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại và góp vốn hoặc thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. ‘Trên thị trường thứ cấp, các bên được tự do đàm phán về giá chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Chính phủ không can thiệp vào
các giao dịch đó’.
Chính phủ Việt Nam vẫn nhấn mạnh ‘vai trò chủ đạo’ của khu vực kinh tế quốc doanh, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, đất đai, tài nguyên, thu thuế, quỹ của chính phủ, hệ
thống bảo hiểm xã hội và
y tế, hệ thống dịch vụ tài
chính, hệ thống cơ sở hạ tầng,
v.v....
Tuy nhiên, ảnh hưởng thực tế của khu vực này đối với nền kinh tế đã giảm
dần, dẫn đến sự nổi bật của các khu vực ngoài nhà nước, bao gồm
khu vực tư nhân trong nước và
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (the foreign
invested enterprise -FIE).”
Nếu nhìn vào thực tế của nền kinh tế Việt Nam sẽ thấy các
vấn đề trái ngược sau đây:
·
Theo
luật pháp Việt Nam “nhân dân nắm giữ tất cả các quyền sở hữu với nhà nước là người quản lý” nên không một người dân nào được phép sở hữu đất đai ở Việt Nam mà phải mua quyền sử dụng và quyền thay đổi mục đích sử dụng đất. Khung giá cho các quyền này do quan chức quy định và là cơ hội để các quan chức lợi dụng chức quyền để thu tóm
tài sản của người dân
và ngân sách nhà nước.
·
Thị trường xăng dầu, điện, Vietnam Airline
do nhà nước độc quyền
khai thác. Và, qua Ngân hàng Nhà nước, quan chức Việt Nam kiểm soát toàn bộ thị trường vàng và lĩnh vực tài chính ngân hàng vì Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có độc quyền mua bán vàng cũng như kiểm soát hoàn toàn lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Một sự thât khó thể phủ nhận,
dù Đảng và quan chức cố che dấu, là ảnh hưởng của sân sau của tất cả quan chức trong nền kinh tế đến vấn đề chính
phủ sở hữu hoặc kiểm soát
các phương tiện sản xuất. Như đã trình bày trên, dù không
có cơ bản pháp lý là các sân
sau là các doanh nghiệp độc quyền,
nhưng thực chất là không một cơ
sở tư quốc gia hay ngoại quốc nào có thể cạnh tranh với chúng. Một câu nói rất phổ thông tại nhiều quốc
gia tham nhũng là “rất khó cho quan chức phê chuẩn một dự
án nhưng rất dễ cho họ
bác bỏ hay làm
chậm tiến độ của một dự án
trên bàn giấy của họ”. Vì quan chức trong Đảng và nhà nước là đảng viên, một cách
gián tiếp nhưng vô cùng hữu hiêu, Đảng và nhà nước Việt Nam kiểm soát các phương tiện sản xuất trong nền kinh tế.
Một kênh rất tiềm ẩn và
vô cùng hữu hiệu mà chính phủ kiểm soát các phương tiện sản xuẩt trong nên kinh tế quốc gia là bằng cách kiểm soát hệ thống ngân
hàng và tài chính qua sự kiểm soát
Ngân hàng Nhà nước. Lý giải vấn đề này vượt quá
phạm vi của bài viết; tuy nhiên xin ghi nhận các điểm trội sau đây của lý thuyết về chính sách tiền tệ
của Mỹ.
Các mục tiêu của chính
sách tiền tệ của Hoa Kỳ (và của hầu hết các quốc gia khác) là:
·
Thúc
đẩy sản lượng và
việc làm bền vững “tối đa”;
·
Thúc
đẩy giá “ổn định”.
·
Duy
trì tăng trưởng dài
hạn của tổng hợp tiền tệ và
tín dụng để đạt được hiệu quả
các mục tiêu về việc làm tối đa giá cả ổn định và lãi suất dài hạn vừa phải.
Nói cách khác, sứ mệnh của Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System - Fed) là
giữ mức độ lạm phát
và tỷ số thât
nghiệp dưới mức chấp nhận được. Khó
khăn cho Fed trong sứ mệnh được
giao phó là hai biến số
kinh tế vĩ mô này hoán đổi lẫn nhau, được hiểu là khi Fed áp dụng công cụ của chính sách tiền tệ phản chu kỳ quá độ để hạ mức độ lạm phát quá độ sẽ đẩy tỷ số thât nghiệp lên cao, và ngược lại.
Và, để hoàn thành sứ mệnh khó
khăn được giao phó, Fed dùng
các công cụ (instruments) sau đây
để điều chỉnh khi mức độ lạm phát
hay tỷ số thất nghiệp vượt cao hơn mức
độ chấp nhận được, mà trong thuật ngữ kinh tế được gọi là
chính sách tiền tệ phản chu kỳ
(Coutercyclical Monetary Policy):
·
Thị Trường Mở Liên bang (Federal Open
Market Operations);
·
Tỷ số dự trữ bắt buộc (Required Reserve
Ration);
· Lãi Suât Quỹ Dự trữ Liên bang cho các ngân hàng thương
mại hội viên
·
vay mượn (discout rate);
·
Lãi
suất mà Fed trả cho tài khoảng mà ngân hàng hội viên ký thác tại
Fed (một phần của dự trữ bắt buộc).
Tài nguyên quốc gia, tình trạng kinh tế, yếu tố địa chính trị, và xã hôi trong nước cũng như trên thế giới cùng với tốc độ thăng tiến của xã hội, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, phải khác từ thời điểm này sang thời điểm khác qua thời gian. Do đó, dù một vấn đề kinh tế ngày nay có hoàn
toàn giống vấn đề trong quá
khứ, cường độ, quá
trình thực thi (cắt giảm hay
gia tăng mức độ gia tăng của các công cụ), và thời gian để chính sách tiền tệ giải quyết vấn đề kinh tế trong quá
khứ đó không còn hữu hiệu để khắc phục vấn đề hôm
nay, mà chúng chỉ có
thể là một chỉ điểm cho công trình “lần đá qua sông”, để khắc phục vấn đề thất nghiệp hay lạm phát trong nền kinh tế quốc gia hiện tại.
Hơn nữa, lịch sử của chính sách tiền tệ Mỹ cho thấy rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ cần 8 đến 12 tam cá nguyệt (hay 2 đến 3 năm) để hoàn chỉnh; do đó, quá trình triển khai và thực thi chính sách tiền tệ phải qua nhiều bước để tránh
áp dụng công cụ của chính sách tiền tệ phản chu kỳ quá độ. Vì phải lần đá qua sông, nên sau mỗi bước Fed (hay ngân hàng nhà nước của bẩt cứ quốc gia nào) phải chờ đợi, theo dõi, dự phóng xem bước đó đã giúp đạt mục tiêu mong muốn chưa, và
điều này cần thời gian.
Như vừa trình bày
trên, sứ mệnh của các ngân
hàng trung ương của các quốc gia dân chủ chỉ vỏn vẹn là giữ mức độ lạm phát
và tỷ số thât
nghiệp dưới mức chấp nhận được. Một điểm vô
cùng quan trọng mà lý thuyết về chính sách tiền tệ đã chứng minh, đồng thời thực tiễn đã xác nhận là để có thể hoàn
thành sứ mênh trọng đại này, các ngân hàng trung ương
phải khả tín
hay có uy tín đối với thị
trường tài chính. Muốn tạo được khả tín hay uy tín thì
ngân hàng trung ương phải nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu của biến số kinh tế vĩ mô khi đã đặt ra (hoặc mức độ lạm phát hay tỷ số thất nghiệp) cho đến khi đạt đươc mục
tiêu tuyên bố; nếu bỏ dở sẽ mất
sự khả tín hay uy tín đối với
thị trường tài chính và ngân hàng. Kết quả tất yếu là thị trường
tài chính cũng như hệ thống
ngân hàng sẽ không tin
khi ngân hàng trung ương tuyên bố mục
tiêu của chính sách tiền tệ kế tiếp.
Nếu quan sát các
quốc dân chủ, ngân hàng trung ương tại các nền kinh tế này rất nhất
quán và kiên trì theo đuổi
cho đến khi đạt được mục tiêu của lạm phát hay tỷ số thất
nghiêp mà họ đã đặt ra và tuyên bố. Do đó, uy tín của họ đối với thị trường tài chính và ngân
hàng rất cao. Khi ngân hàng trung ương có uy tín
tuyên bố cắt giảm hay gia tăng lãi
suất, ngân hàng thương mại phản ứng bằng cách giảm hay gia tăng lãi suất cho vay của chúng đồng chiều (có thể không cùng mức độ) với ngân hàng trung ương. Phản ứng này chuyển tải tác
vụ của chính sách tiền tệ tuyên bố đến thị trường
tài chính. Ngược lại, nếu ngân
hàng thương mại không tin hay
hoài nghi là ngân hàng trung ương sẽ
kiên trì theo đuổi cho đến
khi đạt được mục tiêu, chúng sẽ không phản ứng đồng chiều;
do đó, chính sách tiền tệ của
ngân hàng trung ương sẽ không
thành công.
Trong khi đó, người viết (2015-a, và 2015-b) cho rằng ngoài trách nhiệm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn phải trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả (bao gồm cả các ngân hàng thương mại nhà nước với một số lớn nợ khó đòi - non performaced loans), các dự án phát triển công/hạ tầng cơ sở do quốc hội ủy quyền, thâm hụt ngân sách quốc gia (bao gồm thâm hụt thương mại lớn với Trung Quốc) và
các nghĩa vụ tài chính
quốc tế khác của chính phủ.
Vì quá nhiều mục tiêu
trong sứ mệnh và một số trong các mục tiêu này đòi hỏi những chính sách tiền tệ trái ngược nhau để đạt đến, nên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không thể nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu của biến số kinh tế vĩ mô đã đặt ra và đang theo đuổi cho đến khi đạt đươc mục tiêu tuyên bố.
Điều này làm tổn hại đến
uy tín nên Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam không thể thực thi
chính sách tiền tệ phản chu kỳ
một cách hữu hiệu.
Để hoàn tất sứ mệnh được giao phó, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phải thực hiện chính
sách tiền tệ theo kiểu lập đi lập lại
(on again, off again manner). Điều này dẫn đến các giai đoạn lạm
phát cao sau đó là tín dụng
thắt chặt và lãi suất cao, thường
dẫn đến thất bại trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thất bại chủ yếu là tư nhân vì họ không có trợ cấp từ ngân sách hoặc đặc quyền vay mượn. Hơn nữa, tỷ lệ lạm phát
cao làm giảm thu nhập quốc dân
thật, gây ra sự bất mãn và bất ổn xã hội có thể xảy ra và
tạo ra sự bất ổn theo chu kỳ, phá
sản cá nhân và làn sóng đầu cơ trên thị trường bất động sản và chứng khoán. Điều này làm gia tăng sức mạnh tương đối của khu vực quốc doanh, gián
tiếp gia tăng mức độ kiểm soát
các phương tiện sản xuất của
nhà nước.
·
Chính phủ kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và
sản lượng
Để lý giải rằng nền kinh tế Việt Nam đủ tiêu
chuẩn của nền kinh tế thị trường, Hà
Nội lập luận rằng chính phủ Việt Nam không có quyền kiểm soát đáng kể đối với việc phân bổ nguồn lực hoặc quyết định giá cả và sản lượng của doanh nghiệp. Đồng thời, thư của Hội
đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN gửi
đến BTM Mỹ để yểm trợ yêu cầu
của Hà Nội cho rằng Chính
phủ Việt Nam không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm các
quyết định phân bổ nguồn lực, giá cả và sản lượng.
Một lần nữa, nếu quan sát
kỹ hơn sẽ cho thấy nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam đặt khu vực công làm vai trò hàng đầu trong kế sách phát triển kinh tế quốc gia và cũng là sân sau cho
các nhà lãnh đạo tham nhũng. Các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Việt Nam nhận được sự đối xử ưu
tiên về cơ hội và nguồn lực, cả về tài chính và các phương
tiện khác. Ngoài ra, các DNNN
này rất kém hiệu quả và là cơ sở cho tham nhũng của các nhà quản lý là đảng viên Đảng Cộng sản và được Đảng
lựa chọn để quản lý các DNNN này. Do đó, họ tiếp tục hoạt động với mức lỗ đáng kể hàng năm và các khoản lỗ được chi trả bởi ngân sách, tức là thuế. Thị trường xăng dầu, thị trường điện, Vietnam
Airline, Ngân hàng Trung ương Việt Nam có quyền lực độc
quyền trong việc nhập khẩu và bán vàng.
Lý thuyết kinh
tế vi mô đã chứng
minh, thực tế đã xác nhận độc
quyền sẽ có giá cao thêm
vào tham nhũng và quan chức lãnh đạo kém khả năng giá cả không những cao mà còn không ổn định. Đây là thực trạng của giá cả xăng dầu, điện, và di chuyển. Đối với cơ sở sản xuất, tất cả các
chi phí trong quá trình sản xuất, kể
cả phí “bôi trơn”, sau cùng là chi phí sản xuất. Tất yếu là các chi phí này sẽ là cấu phần của giá
sản phẩm hay dịch vụ khi đến tay người
tiêu dùng. Do đó, dù vô tình hay cố ý, trong thể chế Việt
Nam chính phủ kiểm soát
việc phân bổ nguồn lực, quyết định giá cả và sản lượng.
·
Bộ Thương Mại cũng có thể xem xét các yếu tố khác mà BTM cho là
phù hợp.
Về chỉ tiêu mang
màu sắc chính trị này, Hà Nội biện minh rằng “Nền kinh tế Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc thị trường, như có khung pháp lý
cơ bản cho doanh nghiệp phá sản, minh bạch trong hệ thống quản trị doanh
nghiệp, đảm bảo hệ thống pháp luật nhất quán, đa dạng hóa
và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Được nhiều quốc gia ghi nhận và đánh giá cao. 72 quốc gia đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường bao gồm các nền kinh tế lớn như Vương quốc Anh, Canada,
Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc.”
Có một câu nói nổi tiếng ở Việt Nam rằng: “Việt Nam có một rừng luật, nhưng khi xét xử và kháng cáo, Việt Nam áp dụng luật rừng”. Hoạt động
cho vay do chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không minh bạch
và sẽ không cho phép
Ngân hàng thực hiện hiệu quả chính
sách tiền tệ của mình, gây ra
những bất lợi ngoài ý muốn cho khu vực tư nhân cũng như
ngành tài chính trong nền kinh tế.
Hơn nữa, Đại hội IX đã
thông qua chính sách kinh tế quốc
gia: “... phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa; đó
là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Các
Quy tắc / Luật của ĐCSVN trên
hiến pháp của đất nước và không nhất quán với khẩu hiệu “trong cuộc chiến chống tham nhũng, không có khu vực cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Về vấn đề này, thử xem Tập đoàn Xuân Cầu và Tổng Bí Thư Tô Lâm hay Tập
đoàn Ciputra và cựu Tổng Bí
Thư Nguyễn Phú Trọng, thông cáo báo chí về việc cho thôi chức của các ông Nguyễn Xuan Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ, và bà Trương Thị Mai. Hầu
như tất cả các quan chức chính
phủ đều là đảng viên cộng sản, những người lần lượt chỉ định bạn bè hay phe nhóm của họ quản lý và kiểm soát nền kinh tế, dẫn đến tình trạng “thiểu số lãnh đạo và
đa số bị khai thác” tạo cơ hội để tối đa hóa tham nhũng
quyền và tiền của họ.
Các cơ quan chính phủ Việt
Nam là vườn ươm cho các
vấn đề như: Chuyến bay giải cứu, Vạn
Thịnh Phát, FLC, AIC, Phúc Yên, Khu Thủ Thiêm, Tập đoàn
Công nghiệp Cao su Việt Nam, Công
ty Cây xanh Công Minh, Tập đoàn
Phúc Sơn, v.v..., là những bằng chứng
không thể chối cãi rằng quan chức và lãnh đạo doanh nghiệp đã âm mưu và lạm dụng quyền lực của họ để hỗ trợ bất hợp
pháp cho các doanh nghiệp vì
lợi ích cá nhân /thân hữu rất lớn. Ngoài ra, tham ô ngân
sách quốc gia và các dự án đầu tư công của các quan chức chính
phủ đang lan tràn ở Việt Nam.
Quá trình tư nhân hóa các DNNN vừa và nhỏ để hình
thành các DNNN lớn đã làm
giàu cho các đảng viên và bạn bè/nhóm lợi ích của họ rất nhiều thông qua tham nhũng. Báo chí chế giễu gọi chính sách phát triển kinh tế Việt Nam là “chính sách kinh tế dự án”: có nghĩa
là các nhà lãnh đạo không có
tư duy về kế hoạch phát triển kinh tế, chỉ có tư duy vạch ra các dự án để thực hiện để tối đa hóa tham nhũng của họ mà không quan tâm đến phúc lợi của dân chúng hay là bộ phận cấu thành của chính
sách phát triển kinh tế.
·
Thay
lời kết
Khi nhận định, đúng
hơn là những lời cảnh bào về chính sách quốc gia Việt Nam Busch
(2017) cho rằng “Việc áp dụng thận trọng và có trình tự các thể chế thị trường
của Việt Nam đã mang lại hơn
hai thập kỷ hoạt động kinh tế ấn tượng, trong khi nền kinh tế chính trị cơ bản của đất nước phần lớn vẫn còn
nguyên vẹn và tình trạng ‘thiếu trung gian’ của Việt Nam, hoặc sự thiếu hụt của một khu vực tư
nhân trong nước hiệu quả và
sự thống trị liên tục của khu vực nhà nước. Do đó, mức xuất khẩu và đầu tư ấn
tượng vẫn chưa mang lại lợi ích đồng thời cho giá trị gia
tăng trong nước hoặc liên kết
với các doanh nghiệp trong nước.”
Và từ đó Busch (2017) kết luận: “Vì những thách thức này
thể hiện những rủi ro nghiêm
trọng đối với tiềm năng tăng trưởng
trong tương lai của Việt Nam, điều quan trọng là phải tìm ra các phương pháp mới để củng cố thể chế và giảm vai trò của các chủ thể liên
kết với nhà nước. Hơn nữa,
Việt Nam đã nổi lên như
một câu chuyện kinh tế hấp dẫn nhất Đông Nam Á. Đó là bởi vì tái cơ cấu kinh tế đã mang lại những lợi ích ấn tượng về sự giàu có, thương mại và đầu tư - tất cả trong khi vẫn giữ nguyên cấu trúc quyền lực cơ bản của đất nước. Tuy nhiên, tái
cơ cấu kinh tế thành công cũng
góp phần vào thách thức kinh tế chính của Việt Nam hiện nay, cụ thể là làm thế nào để giải quyết ‘trung gian còn thiếu’ - thiếu một khu vực tư nhân trong nước hiệu quả.
Thật vậy, thành
công to lớn của Việt Nam trong việc
thúc đẩy xuất khẩu và
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vẫn chưa mở ra sở hữu nhà nước rộng lớn hoặc tạo ra mối liên kết giữa các ngành công nghiệp tập trung vào xuất khẩu và phần còn lại của nền kinh tế trong nước. Kết quả là, Việt Nam đã phải vật lộn để gặt hái những
lợi ích đầy đủ từ hiệu quả thương
mại và đầu tư ấn tượng của mình.”
Theo thiển kiến, sau năm 1975, chế độ độc đảng, chế độ cộng sản, khẩu hiệu “đảng chọn,
dân bầu” và quá trình
phân phối lao động theo nguyên
tắc “hồng hơn chuyên” trong nền kinh tế trung ương hoạch định của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã
đưa nền kinh tế đến khủng hoảng kinh
tế nghiêm trọng đe dọa sự tồn
tại của đảng Cộng Sản và thể
chế vào các năm đầu của thập
niên 1980. Việt Nam đã đưa ra kế hoạch đổi mới, trong đó trên lý
thuyết hoạt động kinh tế theo mô
hình trung ương hoạch định được chuyển đổi sang mô hình kinh
tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, vào năm 1986.
Như Busch (2017) cảnh báo, do cố giữ nguyên cấu trúc quyền lực cơ bản của đảng và đảng viên, Việt Nam theo đuổi chính sách kinh tế mà đến nay đã đẩy nền kinh tế lơ lửng trước ngưỡng “bẫy thu nhập trung bình” mà đảng và nhà nước không thể giải quyết.
Việt Nam hy vọng: (i) Được
Hoa Kỳ công nhận có nền kinh tế thị trường (ii) Quyết định
1334/QĐ-TTg; và, (iii) Chỉ thị
24-CT / TW sẽ giúp VN thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện
nay và để bảo vệ/giữ gìn
ĐCSVN. Những điều nói trên
cho thấy nền kinh tế Việt Nam vẫn còn
quá nhiều vấn đề để có thể đáp ứng các tiêu chí do BTM Mỹ đặt ra. Hà Nội hiểu rất rõ những vấn đề này, nhưng để bảo vệ sự trường tồn và quyền lực của Đảng nên cố gắng che giấu hoặc che đậy chúng, vận động hành lang mạnh mẽ và làm những gì lịch sử cho thấy họ rất khéo léo trong việc làm: cố tình hứa hẹn và
cam kết, nhưng, sẽ không hoàn
thành nghĩa vụ của họ.
Về phía Mỹ: thế giới hỗn loạn hiện nay; Đặc biệt, vấn
đề Ukraine, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và vấn đề Tây Thái Bình Dương đã làm đứt gẫy toàn bộ chuỗi cung ứng quốc tế, gây khó khăn
không nhỏ cho nền kinh tế Mỹ dẫn đến
áp lực tư duy thực dụng của
người dân Mỹ. Trong ngắn hạn,
Việt Nam có thể lấp một phần
quan trọng của chuỗi cung ứng quốc tế (bằng cách dựa vào đầu vào, có thể là
sản phẩm cuối cùng nhập khẩu bất hợp pháp, từ Trung Quốc).
Do đó, Hà Nội thừa hiểu rằng
Mỹ có thể phải chấp nhận một
số giải pháp thứ cấp trong một
số thành phần trong chính
sách ngoại giao trực thăng vận
(helecopter foreign policy) của mình để giảm bớt các
vấn đề kinh tế vĩ mô trong nước và giữ cho Việt Nam không rơi xa hơn vào Trung
Quốc. Tuy nhiên, giải pháp thứ cấp nguy hiểm nhất đối với Mỹ là nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, bởi một khi đã được thông qua, rất khó để rút lại khi Hà Nội không thực hiện đúng cam kết của mình. Rất
có thể là nếu tình huống trở nên nghiêm trọng, Mỹ có thể chấp nhận giải pháp thứ cấp này.
Tuy nhiên quy chế tối huệ
quốc (Most Favorite Nation, MFN) đối với Trung Quốc, Hiệp định Paris, các
cam kết của VN trong CPTPP, PCA là
những bằng chứng mà Mỹ đã trải nghiệm đối với các thể chế độc đảng, toàn trị. Do đó,
Hà Nội nên nên suy ngẫm chân lý của câu nói của Tổng Thống thứ 16 của Mỹ, ông Abraham Lincoln, rằng: “Bạn có thể đánh lừa một số người mọi lúc, và tất cả mọi người một số lúc, nhưng bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người mọi lúc.”, trong các dự án hay kế hoạch trong
những tháng năm tới để có
thể được BTM Mỹ mang ra khỏi danh sách
các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường.
Tài liệu tham khảo
· Busch, M. 2017. The missing middle: A political economy
of economic restructuring in Vietnam. Lowy Institue, Victoria State Government
(December, 2017). Busch_A
political economy of economic restrucuring in Vietnam_WEB (1).pdf.
·
ĐÀI Á CHÂU TỰ DO-RFA .2024. https://www.Đài
Á Châu Tự Do-ĐÀI Á CHÂU TỰ DO-RFA.org/vietnamese/in_depth/does-vietnam-have-a-market-economy-or-not-what-does-the-us-say-how-does-vietnam-defend-07102024122141.html.
·
ĐÀI Á CHÂU TỰ
DO-RFA .2024. Cuộc đàm thoại với GS. Nguyễn Văn Chữ về
Việt Nam và Kinh Tế Phi Thị Trường: https://youtu.be/XMwYPSiwNZA.
·
IMF. 2023. Vietnam: 2023 Article IV Consultation-Press Release; Staff
Report; and Statement by the Executive
Director for Vietnam. IMF Country Rport No. 23/338 (September 27, 2023). https://www.imf.org. Truy cập vào
ngày 15, tháng 1, năm 2024.
·
IMF. Direction of Trade Statistics (DOTS). https://data.imf.org. Truy cập vào
ngày 15, tháng 1, năm 2024.
· Keynes, J. M. 1936. The
General Theory of Employment, Interest and Money. McMilllan, London.
· Nguyen, C. V. 2015-a. Vietnam
needs to bring the dong down. East Asia Forum Economics, Politics and Public
Policy in East Asia and the Pacific, 4th July, 2015. http://www.eastasiaforum.org.
· Nguyen, C.V. 2015-b. The Vietnamese lending rate,
policy-related rate, and monetary policy post-1997 Asian financial crisis. Cogent Economics & Finance (2015),
3: 1007808. http://dx.doi.org/10.1080/23322039.2015.1007808.
· Nguyen, C.V., Hiệp, N.P., Lộc, N.B.
2021. Một Góc Nhìn Về Chiến Tranh “Mậu Dịch” Mỹ-Trung
Và Hệ Quả Đến Việt Nam. Nhóm Việt 2000, Houston, U.S.
·
Nguyen, C.V. 2024. Quyết Định Số 1334/QĐ-TTg Qua
Lăng Kính Kế Sách
Phát Triển Kinh Tế,
Ngoại Thương VN, và Suy Tư Về Trách Nhiệm Của Việt Kiều (Kỳ I và II). Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ,
thuộc Trung tâm
Nghiên cứu Việt - Mỹ, Đại học Oregon.
·
Phương Dung 2024. 134 doanh nghiệp Nhà
nước lỗ hơn
115.000 tỷ đồng. VNEXPRESSS, thứ sáu, 11/10/2024. https://vnexpress.net/
·
Thu Lan, P. T. 2017. Tại sao đình công ở Việt Nam luôn là tự phát? Column.global-labor-university.org,
Number 290, November 2017. University of the Witwatersrand, Johannesburg, South
Africa.
· Tri Duc 2024. Vietnam has ‘all the basics’ of a
market economy: US-ASEAN business council. The Investor:VAFIE Magazine
(July 24, 2024). https://theinvestor.vn/vietnam-has-all-the-basics-of-a-market-economy-us-asean-business-council-d11386.html